Chinh phục thác Háng Tề Chơ, một trong 'tứ đại tử địa' của núi rừng Tây Bắc. (SGTT) - Thác Háng Tề Chơ có thể là điểm du lịch còn khá xa lạ đối với đại đa số du khách, tuy nhiên đây là 'đích đến' của nhiều phượt thủ trong thời gian gần đây. Với địa Mô tả: NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ TRUNG ĐẠI I. Phần 1. 1. Trình bày hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ đại. 2. Trình bày những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Khổng tử 3. Phân tích và đánh giá Bài giảng Kinh tề hộ và Kinh tế trang trại. Có nhiều ý kiến khác nhau về hộ, tập hợp một số ý kién của các học giả cho thấy: 1). Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà. 2). Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung Tên mới của y là Sở Hưu, thế giới hiện tại chính là , một trò chơi mà y say mê trước lúc chết. Khoan, Sở Hưu? Kiểm kê bảo vật, dung hợp công pháp 2; Chương 1794: Kiểm kê bảo vật, dung hợp công pháp 1 Uổng Tử Thành; Chương 1738: Trong sương mù 2; Chương 1737: Trong Việc sử dụng đa điệu theo Billeter phù hợp với triết học ngôn ngữ của Trang tử trình bày trong chương 2 nhan đề Tề vật luận sẽ nói đến sau. Đọc và dịch Trang tử theo tiêu chí : tìm lại trong những lý giải tích lũy toàn bộ ý nghĩa mà tác giả gửi vào bản văn khi Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông! ("Truyện Kiều" 3199 - 3204) Trang sinh: Tức là Trang Chu, một nhân vật trong ngụ ngôn của Trang Tử, chính là bản thân Trang Tử. Thục Đế: Vua nước Thục. Có chuyện cổ tích rằng vua nước Thục xưa tên là Đỗ Vũ, sau một trận thuỷ tai Bạn phải đến gặp Công Thâu Ban ở nước Chu để khảm nạm trang bị bằng các loại Tinh Thạch. Ông ta cũng có thể giúp bạn Hợp nhất Tinh Thạch nữa đấy ! Cho dù Công Thâu Ban có cao tay đến đâu thì trong lúc khảm nạm cũng sẽ có xác suất thất bại, khi đó Tinh Thạch sẽ 2. Thân bài: Luận điểm 1: Giải thích. _Trang phục là bề ngoài của con người như quần áo, giày, dép, phụ kiện…. _Văn hóa là cách ứng xử, là tính cách, phạm trù đạo đức của mỗi người. Luận điểm 2: Ý nghĩa, mối liên quan giữa trang phục và văn hóa. _ qua trang phục, có Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Triết gia Trung Hoa Trang Tử nhận thấy có sự tồn tại của hai thế giới thế giới của vật thực khách quan ngón tay – 手 指 thủ chỉ, con ngựa – 馬 mã, cả hành động chỉ vào và nói câu liên quan đến con ngựa và thế giới của “指” [zhǐ] “碼” [mǎ] viết/nói – tức là thế giới của ngôn ngữ muốn và cũng tự cho mình có thể bao trùm và chứa đựng được tất thảy Ngôi nhà Hữu Thể – Heidegger. Quan hệ giữa hai thế giới đó diễn ra như thế nào ở nhân loại nói-viết? Đó là câu hỏi mà Trang Tử đã đề xuất ở thiên tản văn triết học Tề Vật Luận. Bài viết này là một cố gắng cắt nghĩa nhận thức Trang Tử về quan hệ ngôn ngữ-hiện thực trong bối cảnh ngôn ngữ học triết học Giải cấu trúc luận. Tiếp tục đọc → Derida bắt đầu giải cấu trúc đối với cái ý thức logos ngữ âm trung tâm chủ nghĩa của văn hoá phương Tây với hành động cải biến chỉ một chữ cái E trong từ DIFFERENCE thành chữ A, sinh tạo một “từ” mới DIFFERANCE – một “từ” có thể viết, nhưng không có thể nghe và không thể được lí giải trong nói ngôn thuyết – speech. Vậy mà theo chúng tôi Giải cấu trúc luận cuối cùng vẫn còn công nhận một logos ngữ âm chung cực tối cao “đang ngôn thuyết” như là “biên giới sau cùng”. Lão Trang Trung Hoa thì không như vậy. Dường như họ đã bước qua cái giới hạn sau cùng đó để đi vào trong bản nguyên siêu/tiền ngôn ngữ mệnh danh “Đạo”. Thế nhưng cần biết “Đạo” vô thuỷ vô chung, vượt lên trên cái gọi là “in the beginning was the Word”. Liên hệ Lão Trang với Derida là dịp để nêu câu hỏi – giữa Vô Ngôn im lìm, Giải cấu trúc luận tìm thấy khác biệt gì giữa Đông và Tây? Tiếp tục đọc → Trang Tử có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu, là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt “Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn Tất Viên” sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam Trung Quốc ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Cũng theo Tư Mã Thiên, Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu thập dư vạn ngôn để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lão Tử. Miêu tả tính chất thoát tục của Trang, Sử ký Tư Mã Thiên có đoạn viết Uy vương nước Sở nghe nói Trang Chu là bậc hiền tài bèn sai sứ đem vàng lụa đến mời đón hứa cho làm tướng. Trang Chu cười nói với sứ giả rằng “Nghìn vàng là lợi to, khanh tướng là ngôi quý đấy. Nhưng ông không thấy con bò lúc tế giao hay sao? Nó được ăn mấy năm, được mặc đồ vóc thêu để đưa vào nhà thái miếu. Lúc bấy giờ, muốn làm con lợn nhỏ có được không ? Ông đi ngay cho, đừng làm bẩn đến ta. Ta chỉ chơi đùa trong nơi ngòi vũng để tự vui, không để cho kẻ có nước trói buộc, trọn đời không ra làm quan để thoả chí ta.” Nguyên văn Hán-Việt Thiên kim trọng lợi, khanh tướng tôn vị dã. Tử độc bất kiến giao tế chi hỉ ngưu hồ? Dưỡng thực chi sổ tuế, y dĩ văn tú, dĩ nhập Thái miếu. Đương thị chi thời, tuy dục vi cô đồn, khởi hà đắc hồ? Tử cức khứ, vô ô ngã, ngã ninh du hí ô trọc chi trung tự khoái. Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang. Khác với Lão Tử cuối cùng vì chán ngán xã hội Trung Hoa đương thời đã vượt cửa ải Hàm Cốc, mất tích về phương Tây; với Trang Tử, người đời thường nhắc đến “Trang Chu mộng hồ điệp” như một huyền thoại. Nam Hoa chân kinh Theo Từ điển Thành ngữ Trung Quốc thì Nam Hoa là tên một hòn núi ở Tào Châu thuộc nước Tống thời xưa. Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là “sách Trang Tử”. Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,… và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời nhà Tống như Tô Đông Pha. Nam Hoa kinh, theo sách Hán thư Nghệ văn chí, gồm 55 thiên, nhưng ngày nay còn được 33 thiên. Cũng theo truyền thuyết là do Quách Tượng san định và sau này sắp xếp đặt tên Thiên Chương. Không ai biết được rằng quá trình sắp xếp, san định ấy đã làm tổn thất 19 chương hay do đã thất lạc từ trước. Câu hỏi này thật khó giải đáp vì bản hiện nay được hoàn chỉnh vào đời nhà Tấn thế kỷ thứ 3, cách xa Trang đà hơn 500 năm. Các bản dịch Nam Hoa kinh tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là của Nhượng Tống, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Tôn Nhan. Mỗi dịch giả một văn cách, phiêu diêu có, cao nhã có nhưng cốt yếu thì chỗ nhất quán trong tư tưởng của Trang Chu vẫn được tuyệt chú. Nam Hoa kinh hay còn gọi là Nam Hoa chân kinh gồm ba phần Nội thiên – gồm 7 thiên có tựa đề là Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương. Ngoại thiên – gồm 15 thiên có tựa đề là Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du. Tạp thiên – gồm 11 thiên Canh tang sở, Từ vô quỷ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ. Cao đài từ điển [1] cho biết theo nguồn Trang Tử tinh hoa có 5 nhà làm sách chú thích Nam Hoa kinh, nhưng số thiên của mỗi nhà chú thích lại khác nhau Bản chú thích của Tư Mã Bưu, 21 quyển, 52 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 28 và Tạp thiên có 14, Giải thuyết có 3 thiên. Bản chú nầy hiện nay đã thất lạc. Bản chú của Mạnh Thị, 18 quyển 52 thiên. Bản nầy cũng bị thất lạc. Bản chú của Thôi Soạn, 10 quyển 27 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 20. Quyển sách nầy cũng đã mất. Bản chú của Hướng Tú, 20 quyển 26 thiên, không có Tạp thiên. Bản nầy cũng đã mất. Bản chú của Quách Tượng, 33 quyển 33 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 15, Tạp thiên có 11. Bản nầy hiện còn nhưng sửa lại còn 10 quyển. Về sau có Tiêu Hoằng làm ra pho sách Trang Tử Dực, gom góp các lời chú giải của những người trước, từ Quách Tượng trở đi, có lối 22 người. Có thể nói đây là một pho tạp chú rộng rãi và đầy đủ, rồi phần sau lại có phụ thêm phần Trang Tử Khuyết Ngộ, gom góp những chỗ sai biệt từ cuốn Nam Hoa Kinh Giải của Lục Cảnh Ngưu đời Tống đến các tài liệu trong Sử Ký, sách Trang Tử Luận của Nguyễn Tịch, Vương An Thạch, sách Trang Tử Từ Đường Ký của Tô Đông Pha,… Tóm lại, hầu hết các sách của các học giả nghiên cứu về Trang Tử đều được Tiêu Hoằng đọc và trích lục đầy đủ. Căn cứ vào văn mạch của Trang Tử, chỉ có phần Nội thiên là biểu thị được cái chỗ trọng yếu của học thuyết của Trang Tử; còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì rất rời rạc, chỉ bàn đi bàn lại những tư tưởng đã phô diễn trong Nội thiên mà thôi. Riêng Tạp thiên bị xem là văn phong bác tạp không thuần nhất, thậm chí có nhiều chương bị coi là vụng về thô thiển như chương Đạo chích, Ngư phủ, tư tưởng tạp loạn, chê bai Khổng Tử một cách vụng về. Tư tưởng triết học Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan điểm triết học của Trang Tử là “có lời vì ý, được ý quên lời”. Vì vậy, tư tưởng triết học của ông được biểu hiện một cách đơn sơ lại huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, cảm nhận được nhưng không thể diễn đạt bằng lời. “Nó giống như một bức tranh mộc mạc, đường nét đơn sơ, nhưng lại chứa đựng tất cả vì tất cả đang biến động, biến hóa như rồng uốn lượn, cuộn mình tan lẫn trong mây”[2]. Trang Tử – mặc dù rất có công trong việc mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử nhưng hết sức đề cao sự thực hành bằng chính bản thân cuộc sống theo “đạo” nguồn sống, đạo sống hơn là việc suy ngẫm nhưng triết lý thâm trầm về đạo. Sự gợi mở trong cách cảm nhận về học thuyết của mình khiến cho Nam hoa chân kinh giữ được khoảng trống sáng tạo cho nhiều thế hệ độc giả. Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử như sau Vô danh. Tử viết “Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo chẳng thể thấy được, thấy được không phải là nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo” Tri bắc du. Khác với học thuyết Chính danh và đường lối hữu vi của Khổng Tử, ông cho rằng đạo không thể diễn đạt bằng lời, “Duy Kỳ vì ham mê, muốn tỏ rõ nó nên suốt đời mờ tối” Tề vật luận còn “phần tinh túy của chí đạo thì mờ mịt, huyền ảo. Chỗ rất mực của đạo thì lặng hẳn, tối ráo” Tại hựu. Vô thường. Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật chính là “sự sống” của đạo. Thiên hạ có đoạn viết rất hay về nội dung cốt lõi trong tư tưởng này của ông khi đem so sánh đạo với con rồng uốn lượn, luôn luôn biến đổi “Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống chăng? Muôn vật la liệt, không có gì đáng là nơi để ta về”. Đây cũng là chỗ khác biệt giữa Lão và Trang. Trong Đạo đức kinh của Lão Tử luôn luôn thể hiện các mặt đối lập trong đạo âm-dương, cương-nhu, sống-chết…, với Trang Tử, tất cả chỉ có một – trong sự biến hóa không ngưng nghỉ. Đông Quách Tử hỏi Trang Tử – “Đạo ở đâu?” -Không chỗ nào không có. “Xin chỉ ra mới được?” -Trong con kiến. Trong cọng cỏ. Trong miếng sành vỡ…. Lời của ông chẳng đi đến đâu cả. Đừng chỉ hẳn vào vật nào có nó đạo, vì không có vật nào là không có nó. Đạo lớn là thế. Tri bắc du Đức Giống như đức của Mặt Trời là sáng và nóng, đức của nước là lạnh và tuôn chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xã hội nào. “Đức của người thọ ở nơi đất trời, hãy biết gìn giữ nó tột cùng, đừng làm hư hại nó” Dưỡng sinh chủ. Vì đức tự nhiên như “bò ngựa bốn chân thì thuộc về trời, còn thòng cổ ngựa, xâu cổ bò là thuộc về người” nên đức có đời sống độc lập, vận động theo lẽ lớn của tạo hóa và đạo. Vô vi Từ các quan điểm triết học nêu trên, tư tưởng nhân sinh căn bản trong Nam hoa kinh của Trang Tử là vô vi – mẫu mực sống của các bậc thánh nhân – đứng ở chỗ khôn lường mà chơi ở miền không có. Vô vi hành động theo lẽ tự nhiên nhi nhiên, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ “giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh, thuận theo tự nhiên mà không theo ý riêng của mình” Ứng đế vương. Cũng giống như Vô vi của Lão Tử là “vô vi nhi vô bất vi” nhưng mới hơn ở Trang Tử là không thái quá và biết phá bỏ những gì cản trở cho sự phát triển tự nhiên của vạn vật, làm cho mọi vật đều được tự do, bình đẳng sống theo đúng bản tính, sở thích tự nhiên của nó. Tiêu dao du cùng Trang Tử Tiêu dao tiêu diêu là tự do tự tại, du là ngao du. Tiêu dao du có nghĩa là ngao du, rong chơi tự do tự tại. Những câu chuyện trong Tiêu dao du vận dụng tối đa nghệ thuật tưởng tượng, hư cấu vào ý thức sáng tác, kết hợp với cơ sở sự thật. Biệt tài kể chuyện ngụ ngôn của Trang Tử khiến ông không những xứng đáng là một triết gia mà còn là một tác gia văn học với hàng ngàn tỉ dụ trong văn chương. Vì thế, ông còn được xem là ông tổ của phái văn học u mặc trào lộng của nước Tàu từ xưa đến nay. Văn trong Nam hoa kinh toàn dùng lối nghịch thuyết, tức là lối nói nghịch để bổ túc những chân lý phiến diện của người đời. Bởi vậy, văn chương trong Nam Hoa chân kinh rất ngang dọc, phóng túng, khi nói xuôi, khi nói ngược, nói Đông để đả kích phía Tây, nói phải để tỏ thêm cái quấy, nói quấy để bổ túc cho cái phải. Thiên thứ nhất của Nam Hoa kinh, Tiêu dao du kể rằng “Biển bắc có con cá tên là Côn, lớn không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim tên là Bằng, lưng của con chim Bằng lớn cũng không biết mấy ngàn dặm. Khi con chim Bằng ấy vỗ cánh bay lên cao, hai cánh nó lớn như đám mây che cả bầu trời. Loài chim ấy, khi biển động, sóng lớn gầm gào, nó liền chuyển về biển nam. Chỗ biển nam ấy là một cái ao vĩ đại do thiên nhiên tạo thành”. “Một con ve và một con chim nhỏ cười chim Bằng rằng Ta cố sức bay lên cây du, có lúc bay không tới nơi đã rơi xuống cũng chẳng sao, việc gì cần phải bay cao chín vạn dặm đến biển Nam làm gì?’. Người đi đến cánh đồng ngoài chân thành, chỉ cần chuẩn bị ba bữa cơm là đủ quay về, bụng vẫn còn no, còn nếu muốn đi xa nơi trăm dặm thì cần chuẩn bị lương thực một ngày, nếu muốn đi xa ngàn dặm, cần chuẩn bị lương thực ba tháng. Hai con vật nhỏ bé ấy mà biết cái gì?” … Đem loài chim Bằng so với loài côn trùng bé nhỏ con Côn; chỗ này tư tưởng Trang gặp điểm “bất nhị” của Phật học. Chim Bằng lớn có thú vui lưng chở trời xanh, chim Côn nhỏ có niềm hân hoan chưa bay cao mà đã rơi xuống, suy cho cùng, lớn-nhỏ chỉ là cái bên ngoài, còn tự tại thung dung thì không tách bạch. Tiêu dao du, ngay từ những dòng đầu đã tỏ cái chí “du tử” của tác giả. Khác với chỗ đắc đạo của Lão Tử “rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghỉ ngơi như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách”, chỗ phóng nhiệm của Trang Tử bày biện khoáng đạt, rộng rãi như con chim Bằng bay qua biển Nam… Học thuyết của Trang Tử trong Nam Hoa chân kinh, vì thế trở nên vô cùng sinh động, kiến chiếu dưới nhãn quan của một hành giả đắc đạo “không hành, tuyệt đích”. Những lời bình về Trang Tử Sống trong thời kỳ lịch sử có nhiều biến động dữ dội, Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc. Một người “thà chịu kéo lê cái đuôi trong bùn” để giữ nhân cách và bản lĩnh, tâm hồn thanh sạch của mình giữa vô vàn tạp loạn xã hội. Cuộc đời của Trang Tử gắn liền với giấc mơ bướm huyền thoại, gắn với vô số những trùng ngôn, ngụ ngôn sinh động, hấp dẫn. Các học giả khi nghiên cứu về Trang Tử đều cho rằng “khó có thể hiểu và trình bày đầy đủ, hệ thống triết học của ông”.[3] Tư Mã Thiên viết “Sách ông viết có hơn mười vạn chữ, đại để đều là ngụ ngôn. Văn ông viết khéo, lời lẽ thứ lớp, chỉ việt tả tài tình để bài bác bọn Nho-Mặc. Đương thời những bậc túc học cũng không sao cãi để gỡ lấy mình cho nổi. Lời văn phóng túng mênh mông, cầu lấy sự ý thích của mình mà thôi. Cho nên các bậc vương công không ai biết nổi ông là người thế nào”[4] Thanh Hán đời Tống lại cho rằng “Cần lấy Trang Tử mà giải Trang Tử, tuyệt không tin vào ai, mà dưới cũng không bắt ai theo Trang Tử”[5]. Đời Thanh, Lâm Tây Trọng quan niệm “Cần lấy Trang Tử để giải thích Trang Tử, nhưng phải hiểu được cả sở trường Nho-Phật-Đạo mới nên đọc sách này”[5] Về Trang Tử, nhìn từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện một Đạo gia “phóng nhiệm”, “tài tử”, “ngông” và đầy sáng tạo. Khái niệm chủ yếu “Không cốc túc âm” Lũng rỗng, tiếng chân – Trang Tử viết trong chương Từ Vô Quỷ 徐無鬼 Phu đào hư không giả… văn nhân túc âm cung nhiên nhi hỉ hỹ 夫逃虛空者…聞人足音跫然而喜矣, nghĩa là “Phàm người chạy trốn vào chỗ trống không, nghe có tiếng chân người đi thì tất vui vậy”. “Minh kính chỉ thủy” – Trang Tử viết trong chương Đức Sung Phù 德充符 Bồ đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài, Nhân mạc giám ư lưu thủy, nhi giám ư chỉ thủy 菩提本無樹、明鏡亦非臺…人莫鑑於流水、而鑑於止水, có nghĩa là “Bồ đề vốn không phải là cây, gương sáng cũng không phải là đài. Người chẳng soi ở nước chảy, mà soi ở nước dừng”. Thư mục Về tác giả “Truyện Trang Tử” trong Sử ký Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, Hà Nội Nhà xuất bản Văn học, 1988 Các bản dịch tác phẩm Trang Tử, Nam Hoa Kinh, tựa, tổng luận và lời giải của Lâm Tây Trọng, bản dịch và lời bàn của Nhượng Tống, Hà Nội Nhà xuất bản Tân Việt, 1944; tái bản Hà Nội Nhà xuất bản Văn học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001. Trang tử, Nam Hoa Kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, Sài Gòn Nhà sách Khai Trí xb, 1963; tái bản, Nhà xuất bản Hà Nội, 1992. Trang tử và Nam Hoa Kinh, Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch, Hà Nội Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1994. Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nguyễn Tôn Nhan dịch, 1999. Về triết học của Trang tử Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Trang Tử tinh hoa, 1956, in lần thứ 2, 1963. Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung Quốc, Chương X “Giai đoạn thứ ba của Đạo gia Trang tử”. Nguyễn Văn Dương dịch, Sài Gòn Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh, 1968; tái bản Hà Nội Nhà xuất bản Thanh Niên, 1999 Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Hà Nội Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 Trang Tử Lê Thời Tân dẫn Trang Tử từ Văn Nhất Đa Tề Vật Luận 齊 物 論 của Trang Tử có đoạn 以指喻指之非指 [1], 不若以非指喻指之非指也 [2]; 以馬喻馬之非馬 [3], 不若以非馬喻馬之非馬也 [4]。 天下, 一指也 [5];萬物,一馬也 [6]。 Phiên âm Hán Việt Dĩ “chỉ“ dụ chỉ chi phi chỉ, bất nhược dĩ “phi chỉ“ dụ chỉ chi phi chỉ dã; Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã, bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã dã. Thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã. Đoạn nhỏ hai câu trên là một nút thắt khó gỡ bậc nhất trong tác phẩm triết học tiêu biểu này của Trang Tử. Nhằm tránh khỏi bị khỏi ngộp thở giữa “rừng chú giải” nhưng lại vẫn có thể tiến lên nâng cao và khái quát hóa được vấn đề, chúng tôi chọn cách trình bày như sau Trước hết chọn và giới dẫn tập trung một cách hiểu mà chúng tôi cho là phù hợp tinh thần cơ bản của Trang Tử – cách hiểu của Văn Nhất Đa.[1] Việc này tránh được lối trình bày dàn hàng ngang những cách chú giải dày đặc trích dẫn, nặng về khảo cứu chữ nghĩa. Sau khi giới dẫn Văn Nhất Đa, chúng tôi tiến hành mở rộng và nâng cao vấn đề dưới góc nhìn nhận thức luận ngôn ngữ học giải cấu trúc. Cắt nghĩa của Văn Nhất Đa 以“指”喻指之非指,次指謂指名之指抽象名詞,末指謂手指之指實物名稱,“指”則兼此二義之名。不若以“非指”喻指之非指也。以“馬”喻馬之非馬,次馬字謂籌馬之馬,今字作碼抽象名詞,末馬字謂牛馬之馬實物名,“馬”則兼此二義之名,不若以“非馬”喻馬之非馬也。天下,一指也;萬物,一馬也。一犹皆也。此指,馬二字俱抽象名詞。[ Tạm dịch “Dĩ “chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ chữ “chỉ” thứ hai là nói chỉ trong “sự chỉ tên” danh từ trừu tượng, chữ “chỉ” thứ ba là chữ chỉ trong “thủ chỉ” ngón tay – danh từ chỉ vật thực, còn từ “chỉ” thứ nhất tức chữ “chỉ” in đứng, Văn Nhất Đa đặt trong dấu ngoặc kép – LTT thì gồm cả hai nghĩa đó; Bất nhược dĩ “phi chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ dã; Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã, chữ mã thứ hai là nói chữ “mã” trong “trù mã” thẻ để tính toán, ghi số hiệu, ngày nay viết 碼 danh từ trừu tượng, chữ “mã” sau cùng lại là chỉ ngựa trong từ “trâu ngựa” danh từ chỉ vật thực, còn chữ mã đầu tức chữ “mã” in đứng, nhà chú giải đặt trong dấu ngoặc kép – LTT thì kiêm cả hai nghĩa trên. Bất nhược dĩ “phi mã” dụ mã chi phi mã. Thiên Hạ, nhất chỉ dã; Vạn Vật nhất mã dã. Nhất do giai dã.” Trong đoạn Hán văn dẫn trên, cách ngắt câu và cách đánh dấu ngoặc kép đối với câu văn Trang Tử được giữ đúng theo Văn Nhất Đa riêng việc in nghiêng, in đứng và in đậm trong phiên âm Hán Việt như trên là của chúng tôi. Chúng tôi muốn dùng các cách in nghiêng, in đứng, in đậm và in hoa để biểu hiện cách đọc của mình đối với những đoạn văn trong Tề Vật Luận đã được dẫn trong bài viết này. Tôn trọng cách đọc của Văn Nhất Đa, chúng tôi đồng thời cũng chấp nhận sự xác định từ loại của ông đối với các từ trong hai câu này. Như đầu đề công trình “Trang Tử Chương Cú” cho thấy, cách làm của Văn Nhất Đa là – trên cơ sở vận dụng lí luận đồng âm dị tự-dị nghĩa, từ loại học, lần lượt giải thích các từ rồi từng câu văn bản Tề Vật Luận. Trong phân câu [1] ông tập trung cắt nghĩa ba chữ “chỉ”. Đến phân câu [2] tiếp theo, Văn Nhất Đa chỉ chép nó ra mà không giải thích, nhưng ông đã đem hai chữ phi chỉ đặt vào trong dấu ngoặc kép “phi chỉ“. Sau khi giải thích các chữ mã trong phân câu [3] ông chép phân câu [4] ra và không cũng không có giải thích. Văn Nhất Đa cũng không cắt nghĩa trực tiếp hai phân câu [5] và [6], chỉ tập trung giải thích chữ nhất dùng chung trong cả hai phân câu “nhất do giai dã-nhất như “đều là” vậy” Sau này Quách Mạt Nhược rõ ràng cũng có ý thức về vấn đề từ đồng âm khi chú câu văn này của Trang Tử “指是宗旨, 是觀念; 馬是法碼, 是符號” – xem 郭沫若《十批判書 – 莊子的批判》. Có thể nói, dựa hẳn vào ngôn ngữ học, diễn giải của Văn Nhất Đa thực sự giải phóng độc giả Tề Vật Luận ra khỏi vòng rối rắm của huấn hỗ học truyền thống. Đương nhiên Văn Nhất Đa cũng chỉ dừng lại ở ngôn ngữ học truyền thống. Ông chú ý nhiều tới vấn đề đồng âm, dị nghĩa, sở chỉ và năng chỉ của từ khi chú giải đoạn văn Trang Tử. Trong công trình “Trang Tử Nghĩa Sơ” phụ lục của Trang Tử Chương Cú Văn Nhất Đa nói câu Dĩ “chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ, bất nhược dĩ “phi chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ dã là “nói lấy chữ “chỉ” đồng danh nhưng khác nhau về cái vật thực mà nó chỉ ra, để giảng giải vấn đề danh xưng không phải là bản thân sự vật, làm như vậy không bằng lấy những chữ dị danh không đồng âm dị thực chỉ những sự vật khác nhau giải thích danh từ, tên gọi không phải là vật thực. Cái đồng danh dị thực khiến người ta hay lẫn lộn. Còn những chữ dị danh dị thực thì không như vậy” Nguyên văn 谓以同名异实之“指”字说明名称之非实物,不如别以异名异实之字说明名称之非实物也。同名异实者使人迷误,异名异实则不然。 [2 Giải thích tiếp theo này của ông vô hình trung dường như đã làm hẹp lại tầm rộng của bản thân vấn đề mà ông ít nhiều đã hé mở trong chú giải trước đó. Đoạn văn trên của Tề Vật Luận đương nhiên ít nhiều cũng có phản ánh câu chuyện đặc điểm của Hán ngữ – những đặc điểm sẽ được ý thức rõ ràng hơn trong tư biện triết học. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ Trang Tử không phải chỉ nhắm vào mỗi chuyện đồng âm, đồng tự hay chuyện nên biểu đạt tư tưởng bằng một ngôn ngữ khúc triết rõ ràng. Trang Tử cũng không phải chỉ là mượn Tề Vật Luận để bày tỏ thái độ chán ghét các phái “tranh minh” với nhau một cách ồn ào, tranh luận chỉ vì thành kiến hay đơn giản chỉ là vì hơn thua. Đoạn văn trên trong Tề Vật Luận bộc lộ một nhãn quan triết học rộng rãi hơn nhiều. Cách làm của Văn Nhất Đa đơn giản về phương pháp nhưng hàm chứa những gợi ý to lớn về nhận thức luận. Chính vì vậy, chúng tôi thấy cần thiết phải thực hiện một sự mở rộng và nâng cao diễn giải của học giả này. Diễn giải và phát huy Văn Nhất Đa Một điểm rất đáng chú ý trong diễn giải câu văn Tề Vật Luận ở đây là cách đánh dấu nháy “…” lên những chữ-từ nhất định. Như đã nói, đến phân câu [2] Văn Nhất Đa không giải thích, nhưng đem hai chữ phi chỉ đặt vào trong dấu ngoặc kép “phi chỉ“. Chúng tôi cho rằng chỉ như vậy thì ông cũng đã có một sự chú giải đối với câu này. Có thể diễn rộng ý ông rất thành “dùng cái mệnh danh của ngôn ngữ dĩ “chỉ“ để nói nguyên văn “dụ” 喻 – dùng lời để nói rõ, bày tỏ bằng lời, ví dụ câu trong Lã Thị Xuân Thu – phần Ly Vị “ngôn dã, dĩ dụ ý dã. Ngôn ý tương ly, hung dã”. Trong cổ đại Hán ngữ, chữ “dụ” có thể viết bộ “ngôn” 言 mà cũng có thể viết bộ “khẩu” 口 để biểu ý một khái niệm, một hoạt động tư tưởng chữ “chỉ” thứ hai không phải là một sự vật thực chữ “chỉ” thứ ba trong từ “thủ chỉ” – ngón tay thì nhược bằng không dùng “không phải là ngôn ngữ” – “phi chỉ” để thuyết minh, nói rõ ngôn ngữ không phải là chính bản thân sự vật”. Ở đây chúng tôi hiểu “dĩ “phi chỉ” dụ…” ý là “dùng cái không phải là ngôn ngữ để nói rõ…”. Xin đặc biệt chú ý dấu ngoặc kép đánh trên chữ chỉ đầu tiên trong câu văn Trang Tử, Văn Nhất Đa rõ ràng có ý phân biệt các chữ chỉ trong đoạn văn này. Bằng cách đó ông bày tỏ một cách hàm súc cách đọc của mình đối với tư tưởng Trang Tử. Chúng tôi tiến thêm một bước cho rằng ngôn ngữ về một phương diện nhận thức luận nào đó mà nói chính là một cách đánh dấu ngoặc kép lên đối tượng hiện thực khách quan. Và sở dĩ nói bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã dã ấy là vì rốt cuộc “vạn vật nhất mã dã” – thế giới khách quan được diễn đạt trong ngôn ngữ gọi là vạn vật này thực tế đều là kí hiệu “mã“”. Như tuồng để nhấn mạnh tính chỉnh thể hệ thống của một ngôn ngữ “mã“ đối với việc tạo nên một thế giới “vạn vật” – cái thế giới sống trong đó những con người chung dùng “mã kí hiệu” đó, Văn Nhất Đa đã giải thích thêm cho chữ “nhất” – “Nhất do giai dã” “nhất” là “đều là”. Rõ ràng trong câu “dĩ “phi chỉ“…” và “dĩ “phi mã” ….”, phi mã và phi chỉ đều được đặt trong dấu ngoặc kép, chúng tôi xem hai chữ phi chỉ cũng như hai chữ phi mã là liền thành một khối, tức đều là bổ ngữ đối tượng trực tiếp của “dĩ”; Theo tinh thần đó phi mã, phi chỉ trong câu văn Trang Tử đều tương đương với một nhóm danh từ. Chữ chỉ trong khối “phi chỉ” ở đây, theo chúng tôi nên được hiểu là để đang đề cập đến vấn đề ngôn ngữ nó vừa là một danh từ chỉ vật thực ngón tay, vừa là cái sở chỉ signifie, signified hoặc significatum mà cũng là trỏ cái năng chỉ signifiant hoặc signiifer, signifians; Chữ chỉ ở đây là chỉ xưng, chỉ xuất, chỉ thị, lại cũng có thể thông với chữ chỉ trong từ “chỉ dụ” 旨喻/指喻 ; Tương tự chữ mã trong “phi mã” theo chúng tôi cũng nên được lí giải là vừa chỉ một loài động vật bạch mã, mã lực,… mà cũng là “mã hiệu” mật mã, lập mã, mật mã, mã vạch – tóm lại đều đề cập đến chuyện sử dụng ngôn ngữ. Nhân tiện cũng lưu ý rằng, thuật ngữ ngôn ngữ học năng chỉ, sở chỉ vừa dẫn trên, trong tiếng Anh hoặc tiếng Pháp đều có gốc từ sign. Mà sign là chỉ kí hiệu, kí hiệu ngôn ngữ, ngoài ra cũng chỉ động tác làm hiệu, động tác “nói” bằng tay, ví dụ nói sign language – ngôn ngữ cử chỉ [3]. Đến đây tưởng đã có thể diễn rộng Văn Nhất Đa trong trường hợp đọc hiểu đoạn văn Trang Tử “Dùng ngôn ngữ hệ thống kí hiệu gồm hai mặt – chỉnh thể ngữ âm/ngữ nghĩa hoặc nói cụ thể như Trang Tử ở đây, dùng một danh từ kí hiệu bao gồm cái sở chỉ chỉ sự vật và cái năng chỉ hình thành nên ngữ nghĩa để giải thích, cắt nghĩa một khái niệm, một danh xưng không phải chính là bản thân sự vật chú ý quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới khách quan; quan hệ giữa từ và vật – làm một việc như thế chẳng thà dùng không phải là ngôn ngữ hoặc là nói “không dùng ngôn ngữ” – tuy nhiên có thể không dùng ngôn ngữ mà nhận thức được tồn tại hay không – đó là vấn đề tiếp theo trong nhận thức luận Trang Tử, và cũng là một vấn đề lớn của triết học hiện đại khiến người ta hiểu ra một tên gọi, một danh từ không phải là bản thân sự vật.” [4 tr. 35-40] Liên hệ vào trong văn học, chẳng hạn ta có thể nhắc đến Roland Barther khi ông bàn đến vấn đề tự sự lịch sử. Ông nói “Có điều, lời nói vĩnh viễn không thể có được sự vật thực vật quy chiếu ở bên ngoài bản thân nó”. Phân tích ý này của Roland Barther, một học giả nói “Nói cách khác, lời nói về lịch sử trong quá trình hình thành đã làm loạn đi sự chừng mực, đem cái sở chỉ signified xem thành vật qui chiếu refrent. Sự trần thuật lịch sử không thể đạt đến “thế giới chân thực”, vì thế nó chỉ đẻ ra được một thứ “hiệu quả của tính chân thực”. Nó – ít nhất từ thế kỉ XIX lại nay, đem trần thuật đặt định thành cái sở chỉ của thế giới chân thực và thế là đã tạo nên cái hiệu quả đã nói trên… Tự sự lịch sử của “chủ nghĩa hiện thực” kết thúc vòng tuần hoàn mâu thuẫn cấu trúc tự sự thoạt đầu là ninh ở trong cái nồi hư cấu thần thoại và sử thi thời kì đầu sau đó biến thành một sự chứng minh kiêm kí hiệu của bản thân hiện thực” [5 Văn Nhất Đa quay lại với Trang Tử Chúng ta nên biết rằng một danh xưng chẳng qua chỉ là một kí hiệu gọi thành lời, bản thân nó tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể – nó có được ý nghĩa ngữ nghĩa trong một ngôn ngữ nhất định; Trong lúc đó vật thực thì tồn tại trong thế giới khách quan cũng với những ý nghĩa của chính nó; bản thân danh xưng, danh từ không phải là bản thân sự vật; Cũng vậy, ngữ nghĩa của một từ không đồng đẳng với ý nghĩa của sự vật mà từ đó phản ánh. Ngữ nghĩa là tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể, còn ý nghĩa của bản thân sự vật là tồn tại trong hiện thực khách quan, không vì chúng ta dùng thứ tiếng nào gọi nó lên thành từ mà bị thay đổi. Đương nhiên ở đây Tề Vật Luận, có thể Trang Tử còn có ý nói đến hiện tượng “đồng danh dị thực” của tiếng Hán đương thời. Ngôn ngữ một khi được hiểu là công cụ của tư duy, hệ thống kí hiệu, là sự chỉ, là hành động lập mã thì việc dùng chính bản thân nó để phân biệt danh xưng, khái niệm với vật thực – việc đó suy cho cùng đã trở nên thừa mà cũng không giúp ích gì cho một nhận thức luận triệt để. Vật thực tồn tại trong thế giới khách quan, tính cách hiện thực của nó không phụ thuộc vào ý thức ngôn ngữ. Khi con người tư biện trong lòng ngôn ngữ không thể nào khác được về vấn đề từ không phải là bản thân vật, vật không phải là bản thân từ thì, con người dường như bắt đầu cảm thấy một nỗi bế tắc tuyệt vọng, cảm thấy một tình trạng dường như là đang “chạy quanh chạy quẩn” tựa chuyện kiến leo cành cụt cây đa cây đào vậy. Trang Tử nhắc nhở mọi người nên biết là “thiên hạ” “vạn vật” thảy đều là chuyện danh xưng, là vấn đề mệnh danh, tên gọi và khái niệm – tức là vấn đề ngôn ngữ, hoặc nói theo cách nói của Trang Tử – đó chỉ là “nhất chỉ” “nhất mã” mà thôi. “Vạn Vật Nhất Mã dã”. Văn Nhất Đa chú giải “nhất” ở đây là “giai” – đều là. Ông thậm chí còn mở ngoặc nói thêm hai chữ chỉ và mã ở đây đều là danh từ trừu tượng. Theo Trang Tử, phải vượt lên trên ngôn ngữ đạt tới nhận thức trạng thái tồn tại bản-chân-bản-dạng-chưa-từng-bị-phân-cắt-bởi-ý-thức logic – “dĩ vi hữu vật hĩ, nhi vị thuỷ hữu phong dã” tạm dịch thừa nhận tồn tại vạn vật bởi ngôn ngữ, mà biết bản thân tồn tại vật chưa từng bị cầm cố trong ngôn ngữ. Trang Tử yêu cầu siêu việt ngôn ngữ để tiếp cận với Đạo Đạo vừa không thể mô tả bằng ngôn ngữ lại vừa không thể lí giải được bằng ngôn ngữ – “Dĩ vi hữu vật hĩ, nhi mạt sử hữu phong dã”, sách Trang Tử, chương XXV, tiết 11. Đầu tiên, từ chỗ biết được “chỉ chi phi chỉ” “mã chi phi mã” thừa nhận giới hạn nhận thức thế giới quẩn quanh mù mịt trong lòng ngôn ngữ đi đến chỗ nhận thức trở lại được chính bản thân nhận thức – tức là trả lời câu hỏi “chúng ta tại sao lại suy nghĩ/ nói như vậy?”. Ví dụ, trên thực tế chúng ta “chúng ta” ở đây trước hết chỉ – chẳng hạn, những người cùng chung một thứ ngôn ngữ đơn tiết không biến hình thường vẫn có thói quen dùng một danh từ giải thích một khái niệm. Nếu bị hỏi dồn danh từ đó nghĩa là gì, chúng ta thường không do dự chỉ ngay vào vật thực – một cách giản tiện lấy sự vật được biểu đạt bằng cái sở chỉ của danh từ đó đi giải thích bản thân danh từ. Ví dụ bị hỏi “thực vật” là gì, chúng ta đem “cỏ cây” ra trả lời; nếu bị hỏi tiếp “cây là gì”, chúng ta chỉ ngay vào một cây bất kì trong vườn. Thế nhưng cho đến nay, ngôn ngữ học dường như không phải lúc nào cũng chú ý phân biệt một cách rạch ròi nghĩa và ngữ nghĩa. [6 tr. 48-49] Ngữ nghĩa hoặc nói cụ thể nghĩa của từ của chữ, mối quan hệ biểu chỉ – signification và nghĩa, ý nghĩa – sense là hai chuyện khác nhau. Ngữ nghĩa học phải xác định rõ đối tượng của mình. Ý nghĩa, nghĩa thuộc về vật thực. Nghĩa của ngựa, cỏ, ngón tay chẳng hạn được xác định do các nhà sinh vật học, nghĩa của chúng là nhận thức chung của tất cả các ngôn ngữ. Còn việc người Hán viết/gọi 草 [cǎo] phiên âm Hán Việt thảo, người Anh gọi grass – theo Phan Ngọc đó là chuyện hình thức. Còn như ngữ nghĩa của từ tiếng Hán草thì lại được xác định thông qua một loạt thao tác chọn lựa và kết hợp diễn ra trong lòng tiếng Hán. Tức là thông qua đối lập với 草木 thảo mộc cây cỏ, 稻 草 đạo thảo rơm,… mà có được sự xác lập về nghĩa cho từ/chữ 草. Nói một cách khái quát, ngữ nghĩa của một từ ngôn ngữ cụ thể là đặt nó trong trục chọn lựa và kết hợp lịch đại và đương đại mới có thể phân biệt xác lập ra được. 馬 mã với tính cách chỉ vật – nghĩa đó đối với người Anh hay người Hán đều như nhau, nhưng người Hán viết gọi 馬 [mǎ] mà người Anh thì lại định danh thành từ horse. Ngữ nghĩa của từ 馬 hình thành trong sự đối lập với hàng loạt từ khác trong tiếng Hán cũng giống như ngữ nghĩa của từ horse là hình thành trong lòng tiếng Anh vậy. Nhà nghiên cứu tiếng Hán khi muốn định nghĩa nghĩa của từ 馬 đương nhiên sẽ không dắt ra một con ngựa thật trong tự/từ điển việc có thể minh hoạ bằng hình vẽ con ngựa lại là chuyện khác. Nhà nghiên cứu tiếng Hán sẽ thông qua đối lập 馬 với một loạt từ 馬 刀 [mǎ dāo] mã đao, 馬 脚 [mǎ jiǎo] mã cước vết tích để lại 骏 馬 [jùn mǎ] tuấn mã để xác định ngữ nghĩa một từ cụ thể yếu tố 馬 nhất định. Hiểu như vậy, chúng ta chính là đang tiến gần đến câu chuyện “mã chi phi mã”. Quay về với Trang Tử. Chúng ta cần biết rằng trong tiếng Hán một từ đơn – tức một đơn âm tiết viết ra bằng một chữ Hán – nói chung dường như là một hình tượng tức khắc trực tiếp của một sự vật, hành động khách quan. Chỉ dừng lại trên bản thân từ đơn mà tiến hành thao tác tư duy trừu tượng hoá là một việc khó, muốn giang rộng đôi cánh tư duy tư biện thì phải bay lên tầng cao của lĩnh vực từ phức. Trang Tử chính là đã thể hiện một năng lực tư duy tư biện triết học nhuần nhuyễn trong điều kiện mà vốn từ đơn hãy còn chiếm địa vị chủ đạo trong tiếng Hán. Ngoài ra, thông qua sự chú giải của Văn Nhất Đa đối với Tề Vật Luận, trên một mức độ nào đó, chúng ta còn có được một ý thức so sánh ngữ pháp giữa hai truyền thống ngôn ngữ. Tức là nói, lúc đọc một câu văn tiếng Hán, ngoài việc phải lí giải luật tương hợp ngữ pháp nói chung trong các thứ tiếng châu Âu, điều này thể hiện trên biến hoá hình thức của các từ trong câu, chúng ta còn phải chú ý tới luật tương hợp ngữ nghĩa accord tức cái gọi là ngữ pháp ngữ nghĩa. Theo chúng tôi truyền thống chú giải kinh sách của Trung Hoa trên thực tế chính là bỏ công sức rất nhiều trên phương diện này. Thực khó mà xác quyết một bề rằng Trang Tử có hay không một ý thức tự giác hoàn toàn về ngôn ngữ như vậy, nhưng việc đọc hiểu đoạn trích “phi chỉ-phi mã” từ giác độ ngôn ngữ học cấu trúc luận như trên dường như có thể giúp ta phỏng đoán rằng tác giả Tề Vật Luận có suy tính đến bản chất của ngôn ngữ nói chung và những đặc điểm của tiếng mẹ đẻ nói riêng. Trang tử có lẽ là đã tính toán tới việc những đặc điểm đó sẽ đem đến những điều kiện như thế nào cho sự tư biện triết học đương thời. Hoàn toàn có thể đặt vấn đề Trang Tử đã thực sự đối diện với câu hỏi ngôn ngữ rốt cuộc có thể giúp chúng ta tiến gần tới Đạo được hay không? Ngôn ngữ có giúp chúng ta thống nhất được với vũ trụ bản nguyên hay ngược lại, nó khiến cho con người chia cắt với tự nhiên, con người chia cắt với con người? Cho đến nay đó vẫn là câu hỏi chung cho cả nền triết học hiện đại. Chúng tôi mạo muội cho rằng Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã đằng sau lối biểu đạt này có lẽ ẩn tàng một ý thức độc đáo của nhà triết học cổ đại Trung Hoa về mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và vật thực khách quan. Còn mệnh đề tiếp theo Bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã thì chính là đã tiến thêm một bước ý thức về tình trạng “lực bất tòng tâm” của ngôn ngữ trong tư cách là một công cụ của nhận thức. Cái công cụ của tư duy con người, cái công cụ của đối thoại tranh luận này, rốt cuộc có thể đưa con người huyên thuyên nhập mình vào Đại Đạo được hay không? Đối với vấn đề đó, Trang Tử dường như đã biểu hiện một thái độ cực chẳng đã. Chính điều này – ý thức về ngôn ngữ của Trang Tử mới chính là điểm căn bản trong hoài nghi luận đặc sắc của ông. Hiểu được điều đó chúng ta mối thấy được mức độ sâu sắc, sự triệt để cũng như tính hiện đại của nhận thức luận Trang Tử. Trong quá trình nhận thức thế giới bằng ngôn ngữ, Trang Tử dường như cũng đã thấy được biện chứng pháp của nhận thức luận khách quan. Nói một cách đơn giản, có sự tồn tại của hai thế giới một thế giới của vật thực khách quan ngón tay trên bàn tay – 手 指 thủ chỉ, con ngựa – 馬 mã mà chúng ta nuôi… chính là thuộc về thế giới này, cả hành động giơ ngón tay chỉ vào con ngựa và nói câu liên quan đến con ngựa của chúng ta cũng là ở trong thế giới khách quan này và lại còn một thế giới nữa – thế giới của “指” [zhǐ] , “碼” [mǎ] viết/nói – tức là thế giới của ngôn ngữ. Thế giới của ngôn ngữ muốn và cũng tự cho mình là có thể bao trùm và chứa đựng được tất thảy ngôi nhà của hữu thể – Heidegger, giống như Trang Tử mô tả “thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã”. Tại đây, chúng ta có thể suy diễn thêm một bước thiên hạ/vạn vật hoặc nói cách khác cái thế giới được nhận thức này – bao gồm tất cả mọi thứ mà con người gọi lên bằng từ ngữ, trừu tượng thành khái niệm – chính là được hình thành và cố định lại trong quá trình ý thức đến, gọi tên lên, nói/viết ra. Chúng tôi cho rằng trong đoạn văn của Trang Tử, “thiên hạ” và “chỉ” chính là nghiêng về chỉ mặt chủ thể con người, còn “vạn vật” và “mã” thì nghiêng về nhấn mạnh mặt đối tượng sự vật, riêng “nhất” thì ngụ ý quan hệ mật thiết thống nhất giữa hai phương diện đó trên. Nhà triết học Trần Đức Thảo những năm 40 của thế kỉ XX, khi thảo luận vấn đề nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ đã từng đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của hành vi trỏ con mồi và chỉ vào nhau trong săn bắn tập thể đối với việc sản sinh ý thức và ngôn ngữ của bầy người nguyên thuỷ Trần Đức Thảo, Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, hoá Thông tin, Đoàn Văn Chúc dịch từ nguyên bản tiếng Pháp. Gần đây, từ một góc độ khác, cũng có người nêu câu hỏi thú vị “Khi mặt trăng không bị người ta chỉ ra, nó nguyên văn dùng cả hai đại từ giống cái và giống đực他/她; Thông thường tiếng Hán dùng 它- nó “giống trung – chỉ vật” có tồn tại hay không?” Nói tóm lại đây chính là một sự mô tả mối quan hệ giữa con người – ngôn ngữ – vạn vật, một mối quan hệ đặt trong bối cảnh vũ trụ, hoặc như cách nói của Lão-Trang, đặt trong sự biểu hiện cụ thể sinh động của Đại Đạo. Ngày nay nhìn lại với vài ba từ như “duy tâm” “duy vật” hay “siêu hình” thực khó mà khẳng định rõ thực chất tư tưởng Trang tử. Tuy vậy gắn liền vấn đề này với ý thức của Trang tử về ngôn ngữ bộc lộ ra ở Tề Vật Luận ta có thể thấy được phần nào bản chất tư tưởng triết học của ông. Bản chất đó gắn liền với quan niệm về một “Đại Đạo” vô thuỷ vô chung, vượt lên trên cái gọi là “in the beginning was the Word”. Trang Tử nói “Phu đại Đạo bất xưng, đại biện bất ngôn, … … Đạo chiếu nhi bất đạo, ngôn biện nhi bất cập” Tạm dịch Đại Đạo là vô ngôn, sự tham biện lớn thì vô ngữ, … … Đạo mà giảng giải ra thì không phải là Đạo, ngôn biện thì bất cập – Tề Vật Luận, đoạn V [7 Kết từ Chúng tôi tin rằng không phải ngẫu nhiên mà Trang Tử khi biểu đạt tư biện triết học của mình về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện thực khách quan, lại cố tình chọn đúng các chữ “chỉ”, “mã”, “thiên địa”, “vạn vật”, “nhất”. Đây hoàn toàn là xuất phát từ một dụng ý triết học sâu sắc chứ không phải là câu chuyện chơi chữ hay đơn giản chỉ là đùa bỡn độc giả hoặc chỉ nhắm vào một cuộc luận chiến cụ thể nào đó, ví dụ cuộc tranh luận “hắc mã bạch mã” với phái Duy Danh đương thời. Đến nay chú giải Trang Tử nói chung, Tề Vật Luận nói riêng đã chất chồng đến độ để tổng kết đã phải riêng một công trình. Bài viết này như đã nói từ đầu chỉ là mạnh dạn chọn lấy một chú giải phù hợp quan điểm cá nhân, tập trung đào sâu một tư tưởng. Có thể xem bài này như là một chú giải đối chú giải, hoặc nói chính xác hơn – xuyên qua một chú giải để tái thức nhận vấn đề trong bối cảnh nhận thức mới – bối cảnh giải cấu trúc luận triết học ngôn ngữ học. Đặt trong bối cảnh đó ta có thể thấy nhận thức Trang Tử về quan hệ ngôn ngữ-hiện thực biểu thị một sức mạnh tư biện xuất sắc như thế nào.[2] Thiên Tân 2002-2012 Hà Nội Tài liệu tham khảo [1] 聞一多全集, 莊子篇 – 莊子章句 – 齊物論, 湖北人民出版社, 1993 Văn Nhất Đa Toàn Tập Phần Tề Vật Luận trong Trang Tử Chương Cú thuộc Trang Tử Thiên, Hồ Bắc Nhân dân Xuất bản Xã, 1993 [2] 聞一多全集, 莊子篇 – 莊子章句 -莊子義疏, 湖北人民出版社, 1993 Văn Nhất Đa Toàn Tập Phần Trang Tử Nghĩa Sớ trong Trang Tử Chương Cú thuộc Trang Tử Thiên Hồ Bắc Nhân dân Xuất bản Xã, 1993 [3] 英汉语言学词汇 An English-Chinese lexicon of linguistics, 商务印书馆, 2000 Hán Anh Ngôn ngữ học Từ vựng, Thương vụ Ấn thư Quán, 2000 [4] Lê Thời Tân, “Đạo gia và ngôn ngữ học-triết học hiện đại vài điểm suy nghĩ nhân phân tích một câu nói của Trang Tử”, Tạp chí Hợp Lưu, số 101, 7&8/2008 [5] 新 叙 事 學, 北 京 大 學 出 版 社 Tân tự sự học, Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, 2002 [6] Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, niên, 2000 [7] Lê Thời Tân, “Logos Ngữ Âm Trung Tâm luận của Phương Tây và Đại Đạo Vô Ngôn của Trung Hoa – Liên hệ Lão Trang và – vài suy nghĩ về triết học ngôn ngữ học giải cấu trúc”, Tạp chí Ngôn Ngữ, số 3 274, 3/2012 Chú thích [1] Văn Nhất Đa 闻 一 多 Wen Yiduo 1899-1946, nhà thơ và là học giả lớn của Trung Quốc. Ông là người có công lớn trong việc nghiên cứu Chu Dịch, Thi Kinh, Trang Tử và Sở Từ. [2] Bài viết này là phần đầu của một tiểu luận trình bày tại một seminar kết thúc học phần trong chương trình nghiên cứu sinh tại Đại học Nam Khai 南開大學Nankai University năm 2002. Tiểu luận được viết lại bằng tiếng Việt và được công bố trên Hợp Lưu số tháng 7&8/2008 nhan đề Đạo gia và ngôn ngữ học triết học hiện đại – Vài điểm suy nghĩ nhân phân tích một câu nói của Trang Tử. Nửa sau của tiểu luận này chính là bài “Logos Ngữ Âm Trung Tâm luận của Phương Tây và Đại Đạo Vô Ngôn của Trung Hoa Liên hệ Lão Trang và – vài suy nghĩ về triết học ngôn ngữ học giải cấu trúc”, Tạp chí Ngôn Ngữ, số 3 274, 3/2012 Trang Tử370-287BC Môn học Triết học Trung Hoa Giáo sư Vũ Minh Trí, Học viên Nguyễn Hữu Minh Vương, Chân nhân và lý tưởng tự do mà Trang Tử vẽ nên có thể nói là tổng hòa các nét son của nhiều cổ nhân đắc đạo. Họ là những người chân tri sống trong tình trạng tiêu-dao-du bằng phương cách tề vật và vô vi. Vậy, chân nhân là ai? Lý tưởng tự do của Trang Tử là gì? Và tiêu dao du là như thế nào? Mục Lục1. Khởi đi từ khát vọng tự do2. Trang Tử, Nam Hoa Kinh và lý tưởng tự do3. Chân nhân 真人 là ai?4. Tiêu dao du – Tự do của bậc chân nhân5. Làm thế nào để đạt đáo tự do?6. Chân nhân vs. Thánh nhân7. Mở ra từ chân nhân và lý tưởng tự do 1. Khởi đi từ khát vọng tự do “Ôi có đôi khi, thèm như gió đi hoang Sống kiếp lang thang, dạo chơi khắp núi rừng.” Có Đôi Khi – Lã Văn Cường Những lời ca trên được cất lên diễn tả khát vọng tự do của bao người. Tự do được như gió mây, được hòa vào thiên nhiên vạn vật, được rong ruổi tận chân trời góc bể. Tự do đến nỗi họ không còn là họ, nhưng hóa thành “gió trên ngàn”. Có ngẫu nhiên chăng khi lý tưởng tự do ấy được tìm thấy trong minh triết phương Đông, cụ thể trong Nam Hoa Kinh NHK của Trang Tử? Nếu không kế thừa hay bị ảnh hưởng bởi tư tưởng ấy, chắc hẳn vị nhạc sĩ cũng đã ít nhiều tự nghiệm được thứ tự do ấy trong đời mình. Nói khác hơn, ông đã sống và đã biết, để rồi diễn tả điều mình biết bằng lời ca. Ngược lại, cũng có người tìm biết trước khi sống điều mình biết. Đó là lý do vì sao bài viết này muốn tìm hiểu lý tưởng tự do của bậc chân nhân trong tác phẩm NHK của Trang Tử, ước mong có được tiền đề chắc chắn cho việc sống tự do của mình. Theo đó, bài viết sẽ trình bày chân nhân và lý tưởng tự do theo truyền thống Trang Tử, cách thế đạt tự do, đôi dòng so sánh chân nhân với thánh nhân theo Khổng giáo và Kitô giáo và sau cùng là rút ra một vài nhận định. 2. Trang Tử, Nam Hoa Kinh và lý tưởng tự do Trang Tử 369 – 286 tên thật là Trang Chu. Dù là người đất Mông nước Tống, nhưng tư tưởng của ông lại gần với nước Sở. Thật vậy, “lời lẽ của người Sở đều có sự tưởng tượng phong phú, tình cảm và tư tưởng phiêu dật.”[1] Đời sống Trang Tử trong thời Chiến Quốc 403 – 221 mang đặc nét ẩn dật, khó nghèo và tiêu diêu. Cả tư tưởng và lối sống của ông đã góp phần dệt nên NHK, một trong những áng văn kinh điển của văn chương và triết học Trung Hoa. Trong dòng chảy Đạo Gia, nếu Lão Tử nhấn mạnh siêu hình tính của Đạo trong vũ trụ, thì Trang Tử với NHK lại “đưa Đạo vào đời”, cách nào đó kéo Đạo siêu hình về cõi nhân sinh, làm nên Đạo hiện sinh. Một cách nôm na, NHK trình bày một lối sống Lối sống của sự tự do. Người ta nhắc đến tự do và diễn tả tự do bằng nhiều cách thế. Tuy nhiên, tự do không tồn tại như một khái niệm trừu tượng. Nếu xem tự do là một tình trạng, thì tình trạng ấy cần một chủ thể để nghiệm lấy và diễn tả tình trạng ấy. Với Trang Tử, chủ thể của tự do là chân nhân. 3. Chân nhân 真人 là ai? NHK nhắc đến “chân nhân” không dưới 20 lần. Với lối chiết tự, “nhân” mang nghĩa người, còn “chân” mang nghĩa thật. Như thế, chân nhân nghĩa là “người đích thực”. Dầu vậy, “người đích thực” cần được hiểu trong ngữ cảnh của NHK, tức là người đắc đạo theo trường phái Đạo gia. Sẽ thất vọng với những ai muốn hiểu chân nhân theo lối bản thể học, tức xác định bản chất “chân nhân là ai”, vì Trang Tử đã chỉ mô tả theo lối hiện tượng học “thế nào là chân nhân.” Theo nghĩa rộng nhất, chân nhân là người đắc Đạo, là người đạt đáo “chân tri” – “biết được thiên đạo và nhân sự”[2]. Biết được thiên đạo là biết rằng vạn vật do tự nhiên sinh ra, để rồi “sống thì theo luật tự nhiên và chết là biến hóa, khi tĩnh thì tịch mịch như khí âm, khi động thì vận hành như khí dương.”[3] Một khi thuận theo tự nhiên, chân nhân “đưa tinh thần về chỗ Vô Thủy mà vui ở chỗ Hư vô”[4]. Có thể nhận thấy bậc chân nhân với chân tri của mình đã nắm bắt được nguyên lý chuyển hành Âm – Dương, hiểu biết đường nẻo của Đạo và thấu suốt nguồn cội là Vô Cực. Trái lại, vì biết thiên đạo nên chân nhân không đem cái tâm của mình làm tổn thương Đạo, không “bất dĩ nhân trợ thiên”, “không ép tự nhiên phải theo ý chí của mình”.[5] Họ hủy mình đi để nương theo Đạo, nhờ đó hòa vào tự nhiên và nên một với tự nhiên. Trong khi đó, biết được nhân sự là “lấy cái mà trí mình biết, để nuôi cái mà trí mình không biết”[6]. Nếu hiểu “cái mà trí mình biết” là thiên đạo, thì nhân sự – môi trường sống xã hội của con người – là “cái mà trí mình không biết”. Theo đó, biết nhân sự là việc dùng cái biết thiên đạo để áp dụng vào đời sống nhân sinh. Đúng hơn, một khi chân nhân biết thiên đạo, việc biết nhân sự trở thành lẽ đương nhiên, vì nhân sự mặc nhiên diễn ra theo vận hành của thiên đạo. Thậm chí thiên đạo và nhân sự chẳng tách rời, vì “trời với người là một, không đối lập nhau”[7]. Lại nữa, “biết rằng có những điều mình không thể biết được, đó là đạt được cực điểm của “trí””.[8] Một cách nào đó, chân tri của bậc chân nhân chính là “tri túc”. Ngoài biết được thiên đạo và nhân sự, bậc chân nhân cũng đồng thời biết mình và nhận ra mình ở trong tình trạng vô kỷ, vô danh và vô công. Điều này được mô tả trong chương Tiêu Dao Du “Bậc chí nhân thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh.”[9] Chương Đại Tôn Sư diễn giải một loạt điều “vô” tương tự. Theo chiều chủ động, họ vô công khi “không chê ít”, “không khoe thành công”. Họ vô danh khi “không cầu kẻ sĩ tới với mình”, “làm điều tốt không tự đắc”. Họ vô kỷ vì “không ăn thức ngon”, “có lầm lỗi cũng không hối hận”, “không ham sống, không sợ chết, sinh ra không lấy làm vui, chết đi không lấy làm buồn.” Theo chiều thụ động, chân nhân miễn nhiễm với mọi ngoại vật với trí vì trí tuệ không thể thuyết phục được họ; với sắc vì sắc đẹp không thể dụ dỗ được họ, với cường vì đạo tặc không thể cướp của được họ; với quyền vì Hoàng Đế và Phục Hi không thể muốn là được làm bạn với họ; với sinh-tử vì sống chết không thể đổi lòng họ.[10] Có thể nói, chân nhân miễn nhiễm với mọi tác động nội ngoại. Nơi họ toát lên một sự an nhiên và vô tư với tất cả. Đối với họ, mọi sự “thản nhiên đến rồi thản nhiên đi” mà không mảy may để lại tác động hay dấu ấn nào. Xa hơn, nơi chân nhân, mọi mối giằng co lưỡng đề đều được dung hòa hết. Họ có vẻ uy nghi mà không kiêu căng, khiêm tốn mà độc lập; nhân cách khác người mà không cố chấp; chí khí hơn người mà lòng thì hư tĩnh. Kỳ lạ hơn, chân nhân còn thống nhất bản chất nhị nguyên của thực tại, đến nỗi đối với người đó, ưa và ghét chỉ là một, hợp nhất và bất nhất cũng như nhau. Nơi chân nhân ta không tìm thấy bất kỳ sự phân rẽ nào, dù trong nội tâm hay đối với ngoại vật. Sự đồng nhất nơi họ chinh phục hết mọi giằng co nhị nguyên của thực tại sống. Tóm lại, lối tiếp cận hiện tượng luận của NHK, chân nhân được mô tả như là người có được sự bình tâm thượng thừa, dung hòa mọi giằng co và yếu tố nhị nguyên. Họ sống giữa con người và vạn vật nhưng không bị chi phối bởi bất kỳ ai hay điều gì. Quan trọng hơn cả, chân nhân nương theo Đạo để có một sự hòa điệu với tự nhiên. Nhân và nhiên vì thế gắn chặt không rời. Có thể gọi chân nhân là “người giải thoát”, người tự do. Vậy tự do của bậc chân nhân là gì? 4. Tiêu dao du – Tự do của bậc chân nhân Tra cứu bản dịch Anh ngữ NHK của James Legges[11], có đến 49 lần hạn từ “tự do” xuất hiện, trải rộng từ Nội Thiên, Ngoại Thiên đến Tạp Thiên. Cho nên có thể nói tự do là một chủ đề bao trùm trong NHK. Nhưng thế nào là tự do? Một lần nữa, Trang Tử không định nghĩa tự do, ông chỉ diễn giải tự do, và tiêu dao du TDD có thể nói là diễn tả tự do của bậc chân nhân. Tiêu dao du 逍遙遊 lần lượt mang nghĩa giải thoát – xa xôi – đi xa. Cũng có thể hiểu TDD thành tiêu-dao không bó buộc và du rong chơi. Tóm lại, TDD mang nghĩa an nhiên tự tại. Trong NHK, TDD không đơn thuần là một hành động nhưng là tình trạng tự do viên mãn của “người làm chủ được cái chính đạo của trời đất, chế ngự được lục khí để ngao du trong vũ trụ vô biên,” đến mức không còn tùy thuộc vào cái gì nữa. “TDD là siêu thoát ra ngoài thế vật, theo lí thiên nhiên.”[12] Thế nhưng, sau khi đặt tựa TDD, Trang Tử không nói gì thêm, thậm chí ta không tìm thấy ba chữ tiêu-dao-du nào nữa trong phần nội dung. Đọc qua các giai thoại, Trang Tử không giải thích TDD là gì, nhưng dường như ông muốn chuyển tải nguyên lý ẩn tàng của TDD. Qua câu chuyện ngụ ngôn giữa chim bằng bay cao chín vạn dặm với ve sầu và chim cưu bay lên cây du cây phượng, Trang Tử muốn nói đến “sự vô thường của cái lớn và cái nhỏ”[13]. Hình ảnh nước sâu-thuyền lớn với vũng nước-cọng cỏ cũng diễn tả sự bất cân đối giữa tiểu và đại. Kết quả là không nên so sánh, hay đúng hơn bất khả so sánh, vì “trí lực nhỏ không thể so sánh với trí lực lớn; cuộc đời ngắn không thể so sánh với cuộc đời dài.” Theo học giả Phùng Hữu Lan, suy cho cùng, vạn vật đều phát xuất từ Đạo, mỗi vật đều có cái Đức riêng, đều có tính tự nhiên cá vị chim bằng khác chim cưu. Cứ thuận theo tự nhiên, biết thích ứng bản tính của mình, mỗi loài mỗi vật sẽ viên mãn và hạnh phúc, không cần nại đến hay sánh ví với ai. Trong dòng chảy tư tưởng Đạo gia, nhiều học giả gọi tên cho tình trạng này là “vô vi”, dù Trang Tử không minh nhiên nhắc đến hạn từ này. Vô vi, nghĩa mặt chữ là “không làm”. Nhưng vô vi không phải là không làm gì cả vì “vô vi nhi vô bất vi”[14]. Vô vi nghĩa là không làm xét theo bản ngã tôi, nhưng làm xét theo vô ngã Đạo. Vô vi tức là hành vi của vô ngã vì “hễ sống thuận được với Đạo rồi, thì cái mà mình gọi là “làm” không còn phải là mình làm nữa, mà chính là cái Đạo nơi mình làm.”[15] Tóm lại, vô vi là không làm theo ý mình, mà làm theo ý thiên đạo. Đó là quy luật tự nhiên đòi ta phải nương theo, như cánh bèo dập dìu nổi trôi sóng nước, như cánh lá thả rơi trong gió trời. Từ TDD đến vô vi, suy cho cùng, tự do của bậc chân nhân là việc nương theo Đạo, là sống theo tự nhiên. Ở đoạn đối thoại nổi tiếng ở Nhân Gian Thế, Trang Tử nhắc đến tự do một cách minh nhiên “Tai chỉ nghe được thanh âm, tâm chỉ lãnh hội được hiện tượng, khí vốn tự do cho nên dung nạp được vạn vật. Đạo vốn tự do cho nên bảo tự do là trai giới của tâm.”[16] Như thế, tự do không là tình trạng của tai giác quan hay của tâm lòng trí, nhưng của “khí” tinh thần. Trong khi tự do là đặc tính hay bản chất của “Đạo”, nó chỉ được tìm thấy ở cấp độ tinh thần của con người mà thôi. Ở đây, Trang Tử gọi tự do là “sự trai giới của tâm” hay “phép chay-tịnh của lòng,”[17] tức để cho mình không bị ảnh hưởng bởi ngoại vật. Điều này ngụ ý rằng để có tự do tinh thần, con người phải là luyện tập tâm trí, để một ngày kia họ “không thấy có mình nữa.” 5. Làm thế nào để đạt đáo tự do? Câu chuyện của Nhữ Vũ trong Đại Tôn Sư thuật lại tiến trình đi đến tự do Sau ba ngày, coi thiên hạ là hư không; bảy ngày nữa, coi vạn vật là hư không; thêm chín ngày, coi sinh tử là hư không. Giác ngộ; thấy vạn vật chỉ là một; vượt được cổ kim thời gian; vào cõi không có sống có chết. Đạt được tình trạng “lúc nào cũng bình thản”. Ba con số tượng trưng 3, 7 và 9 lần lượt gắn với sự hư không của thiên hạ, của vạn vật và của sinh tử có lẽ mang nhiều ý nghĩa. Ba con số diễn tả sự tiến triển của thời gian, dường như tóm tắt một đời người. Thế nên, thay vì đích điểm, tự do là tiến trình tiệm tiến và lâu dài. Thật bất ngờ khi ba sự hư không được nhắc đến ở trên lại gần như khớp với ba diễn tả của Tề Vật Luận coi thiên hạ hư không – thông nhân ngã; coi vạn vật hư không – phế thị phi; coi sinh tử hư không – bình sinh tử. Thứ nhất, thông nhân ngã – coi thiên hạ hư không “Mình là người khác; người khác cũng là mình. Mình và người đừng chống đối nhau nữa.” Thứ hai, phế thị phi – coi vạn vật hư không “Vật nào cũng là vật khác mà cũng là chính nó. Phân biệt vật và mình thì không thấy được lẽ đó, hòa đồng với vật thì thấy được.” Giai thoại Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, tỉnh dậy chẳng biết mình mộng hóa bướm hay bướm mộng hóa mình. Thứ ba, bình sinh tử – coi sinh tử hư không “Sống cũng là chết, chết cũng là sống. Cái có thể được cũng là không thể được, cái không thể được cũng là có thể được. Xác nhận cũng là phủ nhận, phủ nhận cũng là xác nhận.” Trang Tử kết luận “Cái chốt của Đạo ở đó.” Đạo biến hóa vô cùng, nhưng sự biến hóa ấy không tạo ra thực tại nhị nguyên, trái lại luôn nhất nguyên, vì trong dòng chảy của Đạo, “trời đất cùng sinh ra với tôi, vạn vật và tôi hợp nhất, chỉ là một.”[18] Mọi khác biệt nhị nguyên đều là tác phẩm của nhân thế, như Trang Tử nói Có đi rồi mới thành đường, đặt tên mới có vật này vật kia. Cái lớn cái nhỏ, cái xấu cái đẹp, tất cả đều hợp nhất trong Đạo, thậm chí không vật nào có sinh thành, có hủy diệt vì rốt cuộc lại hợp nhất trong Đạo. Thêm nữa, “đại trí thì bao quát, tiểu trí thì phân biệt những cái nhỏ nhặt.”[19] Thế mới nói tầm nhìn là yếu tố quyết định của tề vật. Nếu tề vật luận là giải pháp cho tự do theo chiều hướng ngoại, thì nguyên tắc “đơn và đủ” là giải pháp cho chiều hướng nội. “Thánh nhân vị phúc bất vị mục”[20], tức là chỉ vì đói thì ăn, khát thì uống chứ không vì dục vọng của con mắt để tìm kiếm nhiều hơn. Nếu đèn đất là đủ thì cớ gì phải xài đèn đồng để gây cớ vấp phạm cho quân trộm cướp? Nhân Gian Thế cũng nói thêm “Đừng miễn cưỡng làm quá để thành công. Cái gì vượt mức thường tức là quá độ.” “Đơn và đủ” là chọn lựa để tự do. Trái lại, sự thừa thãi bị lên án, đặc biệt những thành kiến nhỏ nhen và hoa mỹ phù phiếm khiến Đạo bị che khuất, vì “chân nhân tiêu dao ở chỗ hư không, coi trí tuệ là mầm thừa, lễ tín là thứ keo dính,” thậm chí thánh nhân của Khổng giáo bị kết án là tội đồ.[21] Dù muốn dù không, đã có một sự so sánh ngầm ẩn giữa chân nhân của Trang Tử và thánh nhân của Khổng giáo. 6. Chân nhân vs. Thánh nhân Chân nhân của Trang Tử vs. Thánh nhân của Khổng giáo Vậy giữa chân nhân của Trang Tử với thánh nhân của Khổng Tử có gì giống và khác? Thứ nhất, nếu chân nhân là bậc đắc Đạo, nương theo Đạo để sống, thì thánh nhân của Khổng Tử là một phần của Tam Tài Thiên-Nhân-Địa được minh họa bởi chữ vương 王. Thứ hai, trong khi chân nhân xóa mình đi giữa tự nhiên, trở thành một phần trong nhất nguyên tổng thể của vạn vật, thì thánh nhân lại giành lấy vị thế tối thượng, sánh ngang với Thiên và Địa, đóng vai trò tham thiên địa và hóa dục thiên địa. Thứ ba, nếu cách thế đạt Đạo của chân nhân là vô vi, trải qua tiến trình bỏ ý mình nương ý trời, thì thánh nhân dù khởi đi từ “suất tính” hay “tứ đoan” bẩm sinh, phải trải qua tiến trình tu thân nhờ “tam cương” quân-thần, phu-tử, phu-phụ và “ngũ thường” nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tựa như cây hoa mai mọc giữa rừng vắng, hút nước mạch, ngấm sương trời để lá cành xum xuê, hoa vàng năm cánh; so với cây mai được trồng trong chậu kiểng, được tưới tắm, cắt tỉa để thân cành uốn lượn, hoa vàng sáu cánh theo ý người. Nếu gắng tìm một điểm chung giữa chân nhân và thánh nhân, có lẽ đó là sự “hòa”. Chân nhân hòa với Đạo, nên một với tự nhiên; thánh nhân hòa hợp nơi chính mình và hòa điệu với tất cả thực tại. Chỉ khác một điều, sự hòa của chân nhân theo chiều rộng-ngang, trong khi của thánh nhân theo chiều cao-dọc. Chân nhân của Trang Tử vs. Thánh nhân của Kitô giáo Dưới cái nhìn mở, có thể thấy giữa chân nhân và thánh nhân có nhiều điểm tương đồng. Thứ nhất, chân nhân là bậc đắc Đạo, sống nương theo Đạo thì thánh nhân cũng là bậc đạt đạo, sống theo đường lối của Thiên Chúa. Thứ hai, nếu vô vi là hành động của bậc chân nhân dưới tiêu chuẩn “tề vật” nhất nguyên, thì “thi hành thánh Ý” là chọn lựa của bậc thánh nhân với tiêu chuẩn tình yêu đại đồng vốn vượt trên đúng-sai và phân biệt đối tượng. Thứ ba, tự do tiêu-dao-du của chân nhân cách nào đó gần giống với sự thoát tục của thánh nhân – sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian x. Ga 17, 14. Thế nhưng, dầu có vẻ giống nhau, mọi so sánh giữa chân nhân và thánh nhân vẫn luôn khập khiễng vì vô vàn khác biệt, trong đó đáng chú ý nhất là mạc khải. Chân nhân tự đắc Đạo, thánh nhân được mạc khải bởi Thiên Chúa ngôi vị. Điều này cũng ngầm khẳng định vị thế của thánh nhân, trong khi là một phần của thực tại vẫn trổi vượt trên mọi thực tại. Giả như Đức Maria chỉ chọn sống an nhiên theo Đạo, làm sao Ngôi Lời có thể nhập thể cứu đời? 7. Mở ra từ chân nhân và lý tưởng tự do Chân nhân là một lý tưởng đẹp về bậc đắc Đạo với cái nhìn về một thế giới đại đồng, không phân biệt tôi-người, màu da, giai cấp. Thật ra, Trang Tử đã tìm về nguồn cơ sâu xa nhị nguyên gây đau khổ và ước mong giải quyết tận gốc bằng vô vi. Từ đó, thái độ tôn trọng tự nhiên của NHK thức tỉnh và đòi những ai là “người đích thực” phải có trách nhiệm với thiên nhiên. Nguyên tắc “đơn và đủ” cũng là lời khuyên hữu ích cho những ai khao khát tự do bằng cách sống “đơn giản mà đủ” và loại đi những thứ chủ nghĩa công-danh, cá nhân, hưởng thụ… Dầu vậy, lý tưởng chân nhân của Trang Tử vẫn còn một vài vướng mắc. Dù đạt đến bậc chân nhân, con người chưa bao giờ có chỗ đứng quan trọng trong vũ trụ. Đành rằng lời mời gọi hòa điệu trong toàn thể quả đáng quý, nhưng phẩm giá làm người vẫn luôn cao quý và trổi vượt so với mọi tạo vật. Thay vì đẩy đến thái cực này hay thái cực khác, có lẽ ta nên dung hòa mối căng thẳng ấy. Thứ đến, trên đường đạt Đạo, NHK chỉ thấy tiêu cực và lên án Nho gia. Thiết tưởng, thay vì chỉ toàn lên án, ta nên thừa nhận những điểm sáng của họ. Nếu không dụng tài dụng đức, làm sao có phát triển văn minh? Có lẽ Trang Tử không lên án những sáng tạo chừng mực hợp tự nhiên cho bằng lên án toan tính thống trị của con người qua những sáng tạo trái tự nhiên.[22] Cuối cùng, chân nhân và lý tưởng tự do của Trang Tử dù rất hay và hấp dẫn, nhưng thiếu tính thực hành so với Nho giáo. Phải chăng Trang Tử muốn nói, để có tự do, ta phải dấn bước và tự kinh nghiệm thay vì chỉ tìm biết bằng câu chữ và áp dụng những nguyên tắc sẵn có? Tóm lại, chân nhân và lý tưởng tự do mà Trang Tử vẽ nên có thể nói là tổng hòa các nét son của nhiều cổ nhân đắc đạo. Họ là những người chân tri sống trong tình trạng tiêu-dao-du bằng phương cách tề vật và vô vi. “Chân nhân thời cổ” là một khái niệm rất chung chung. Có lẽ chân nhân không phải là một con người, một thực tại trọn vẹn ở đây và lúc này, nhưng diễn tả một tiến trình và đích nhắm. Nói như thế không có nghĩa chân nhân chỉ tồn tại trên lý thuyết, đúng hơn, là chân nhân mà chưa phải là chân nhân, vì thực tế, con người luôn ở trong tình trạng giằng co liên tục, một quá trình trở thành liên lỉ. Thế nên con người vẫn phải hoài ước ao “Ôi có đôi khi thèm như những con chim, cứ hót líu lo rồi tung cánh lên trời Đến đến đảo hoang, tìm nơi vắng bóng người. Rồi cười nói một mình. Và lặng khóc một mình…” THƯ MỤC THAM KHẢO Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nguyễn Hiến Lê dịch. NXB Văn Hóa, 1994 Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nhượng Tống dịch. NXB Tân Việt, 1962 Cần, Nguyễn Duy, Trang Tử tinh hoa. NXB Đại-nam Lan, Phùng Hữu, Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, tập I. NXB Khoa Học Xã Hôi, 2006 Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Nguyễn Duy Cần dịch. NXB Văn Học, 1991 Pakkes, Graham, “Lao-zuang and Heidegger on Nature and Technology,” trích trong Journal of Chinese Philosophy 301 March 2003 7. Zhuangzi, James Legges dịch, trích ở [1] Phùng Hữu Lan, Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, tập I NXB Khoa Học Xã Hôi, 2006, 301. [2] Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nguyễn Hiến Lê dịch NXB Văn Hóa, 1994, Đại Tôn Sư, 214. [3] Trang Tử, Khắc Ý, 318. [4] Trang Tử, Liệt Ngự Khấu, 524. [5] Trang Tử, Đại Tôn Sư, 215; Từ Vô Quỷ, 441. [6] Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nhượng Tống dịch NXB Tân Việt, 1962, 125. [7] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Đại Tôn Sư, 217. [8] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Tề Vật Luận, 169. [9] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Tiêu Dao Du, 151. Chí nhân, thần nhân, thánh nhân ở đây được hiểu tương đương với chân nhân. [10] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Điền Tử Phương, 391. [11] Zhuangzi, James Legges dịch, trích ở [12] Nguyễn Hiến Lê dẫn lời của Vương Tiên Khiêm. x. Trang Tử, 157. [13] Footnote 1 trong Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, 148. [14] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, Nguyễn Duy Cần dịch NXB Văn Học, 1991, chương 48, 231. [15] Nguyễn Duy Cần, Trang Tử tinh hoa NXB Đại-nam, 86-87. [16] Đối chiếu và so sánh bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Hiến Lê, 192 với bản Anh ngữ của James Legges “But the spirit is free from all pre-occupation and so waits for the appearance of things. Where the proper course is, there is freedom from all pre-occupation; such freedom is the fasting of the mind.’” [17] Trang Tử, Nhượng Tống dịch, 97. [18] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Tề Vật Luận, 168. [19] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Tề Vật Luận, 160. [20] Lão Tử, chương 12, 80. [21] Trang Tử, Nguyễn Hiến Lê dịch, Đức Sung Phù, 210. Xem thêm ở Mã Đề, 248 “… thánh nhân xuất hiện, dùng lễ nhạc uốn nắn con người, đề cao nhân nghĩa để vỗ về nhân tâm. Từ đó dân chúng mới tận lực dùng trí xảo, tranh nhau lợi lộc, không làm sao ngăn được nữa, đó là tội của thánh nhân.” [22] Graham Pakkes, “Lao-zuang and Heidegger on Nature and Technology,” trích trong Journal of Chinese Philosophy 301 March 2003, 28. Tư tưởng của Trang Tử là tư tưởng đặc biệt nhất trong bách gia chư tử. Bách Gia Chư Tử những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc Khổng Tử nói, chúng ta phải làm người cho tốt Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhật nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. » Khắc phục ham muốn của mình, nói và làm phù hợp với lễ. Ngày ngày làm được như thế, người trong thiên hạ sẽ cùng về đức nhân » Mặc dù Lão tử nổi danh trong Đạo gia, nhưng thực tế, mục đích lý luận Đạo khả đạo, phi thường đạo » của ông vẫn được người đời sử dụng. Nếu có thể nói được đạo là gì, thì đó không phải đạo vĩnh cửu trường tồn Riêng mình Trang Tử không nói đến phẩm chất làm người, không nhắc về đời sống xã hội, không bàn về lý tưởng phấn đấu. Ông chỉ ước ao hạnh phúc, chỉ mong ai cũng tìm được hạnh phúc cho mình. Ông nói Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. » Trời đất sinh ra cùng với ta, vạn vật với ta là một Từ đầu đến cuối, ông chưa bao giờ phủ nhận bất kỳ ai, chỉ mong ai cũng có thể đạt được hạnh phúc thực sự. Người sống ở đời, có vô vàn lựa chọn khác nhau. Bạn có thể là một người giàu, có thể là một người nghèo. Bạn có thể chọn lấy cuộc sống bình lặng ổn định, cũng có thể sống một cuộc đời mạo hiểm thử thách. Bạn có thể khao khát kiếm thật nhiều tiền, hoặc chỉ cần sống tạm bợ ngày qua ngày, bữa nào hay bữa ấy, phớt lờ thời cuộc thế gian. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, ai cũng đều mong cầu một cuộc sống hạnh phúc, không riêng mình ai. Vậy hạnh phúc ấy bắt nguồn từ đâu ? Là nhờ thân phận, địa vị của bạn à ? Hay dựa vào của cải bạn sở hữu trong tay ? Trang Tử nói với bạn rằng, cái nào cũng không phải. Hạnh phúc của bạn xuất phát từ thế giới nội tâm ẩn sâu trong chính con người bạn mà thôi. Trước khi xử lý câu hỏi về hạnh phúc này, chúng ta hãy giải quyết một vấn đề khác, ấy là, nỗi đau trong cuộc sống bắt đầu từ đâu ? Trang Tử đã đưa ra lời giải đáp trong Tề vật luận » Bàn luận về vạn vật ngang hàng. Ông nói Kỳ hữu chân quân tồn yên, như cầu đắc kỳ tình dữ bất đắc, vô ích tổn hồ kỳ chân. » Có những thứ lần lượt chi phối, định yên mọi vật, hay có một lực lượng làm chủ muôn điều ? Cho dù thật khó để khám phá ra thứ ấy, cũng không ảnh hưởng đến sự tồn tại của bất kỳ điều gì, kể cả chính bản thân thứ kia. Một người có thể phân thành hai cái tôi », một cái tôi tinh thần, một cái tôi thể xác. Cái tôi tinh thần chính là trái tim của bạn, không ngừng cảm nhận thế giới này. Bạn có thể cảm nhận niềm hạnh phúc, cũng có thể cảm thấy nỗi u buồn. Bạn có thể cảm thấy sự thù địch của thế giới nhắm tới bạn, cũng có thể cảm nhận được thiện chí thế gian này giành cho mình. Nhưng dù là loại cảm nhận nào đi chăng nữa, trái tim của bạn mới là chủ nhân chân chính của những nhận định này. Lấy ví dụ, khi một người lạ trên đường giơ tay chào bạn, bạn có thể nghĩ rằng người ta có thiện ý, cũng có thể coi đó là một hành động ác ý đáng ngờ. Người lạ kia chỉ thực hiện một cử chỉ chào hỏi không hơn không kém, nhưng điều thực sự khiến bạn cảm nhận cử chỉ ấy theo chiều hướng tốt hoặc xấu, lại là cảm xúc từ sâu thẳm bên trong. Nhưng tại sao trong thâm tâm bạn lại cảm thấy như vậy ? Bởi vì đấy chính là định kiến ». Kể từ giây phút đặt chân đến thế giới này, chúng ta sẽ không ngừng đánh giá và cảm nhận thế giới bằng đôi mắt của chính bản thân mình. Nhưng liệu những nhận định ấy có là luôn đúng ? Không biết được. Vậy là luôn sai ư ? Không hoàn toàn. Nói vậy, chẳng lẽ phán đoán của người khác lúc nào cũng đúng ? Có thể. Hay những gì họ nói đều sai hết à ? Cũng không hẳn vậy đâu. Thực ra rất khó định nghĩa đâu đúng đâu sai. Ấy vậy, những phán đoán xuất phát tự trong tiềm thức sẽ mang lại cho bạn những cảm giác nhận nhau và những cảm nhận ấy sẽ không ngừng xâm chiếm trái tim, thể xác bạn. Bạn có thể vì những cảm nhận ấy mà vui sống buồn chết, có thể vì những thống khổ kia mà tưởng chừng chẳng thể tiếp tục tồn tại trên cõi đời này. Vậy làm thế nào để thoát khỏi những rằng buộc đó ? Người ta vẫn nói, nhân vô thập toàn, không ai sinh ra mà hoàn hảo cả. Nếu chúng ta nhìn nhận thế giới qua lăng kính của bản thân, sẽ có vô vàn mâu thuẫn nảy sinh, và ta sẽ không bao giờ đưa ra được một câu trả lời chính xác. Càng nỗ lực kiếm tìm lời giải, sự thật càng xa vời khỏi tầm tay ta. Nhưng nếu không bỏ công truy kiếm, ta lại mù mờ chẳng rõ, con đường trước mặt phải đi thế nào cho phải bây giờ ? Đau đớn đã bắt đầu như vậy đấy. Bởi vì chúng ta được sinh ra giữa bao bề bộn như vậy, mới chẳng tìm được câu trả lời mình cần. Nếu vậy thì nên làm gì bây giờ ? Trang Tử nói Xu thủy đắc kỳ hoàn trung, dĩ ứng vô cùng. Thị diệc nhất vô cùng, phi diệc nhất vô cùng dã. Cố viết Mạc nhược dĩ minh » Vòng tròn thị/phi » phải/không phải xoay quanh một điểm chốt, tức cái cốt yếu của Đạo. Chốt ở trung tâm, có thể thích ứng với thiên biến vạn hóa. Đúng sai biến hóa khôn cùng, cách tốt nhất là dùng trái tim sáng suốt soi xét bản chất của muôn sự trên đời. Để bản thân thoát ly hẳn khỏi mọi vấn đề, đứng tại tâm điểm, nhìn lại toàn bộ nhân gian. Tưởng tượng rằng ta đang ở điểm cao nhất đặt tại trung tâm của thế giới, phóng mắt nhìn khắp xung quanh. Thấy được đủ loại người, muôn hình vạn trạng. Thấy cảnh đẹp bốn phương, non nước hữu tình. Thấy cả bản thân trong quá khứ, chìm sâu trong bể khổ đau thương, chẳng có cách nào vẫy vùng thoát khỏi. Thấy rằng có biết bao loại người như thế, ấy vậy mà ai cũng từng trải qua rối bời buồn bã, chán chường thờ thẫn giống ta. Có người nói, chúng sinh đều khổ. Đấy chính là xã hội mà chúng ta đang sống. Chỉ vậy mà thôi. Những gì bạn trải qua là những gì nên được trải qua với tư cách là một con người. Bởi vậy, nhân sinh vô giải. Lối ra duy nhất là mở một cánh cửa sổ cho tâm hồn, ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Trong Plato on utopia », Plato có nói đại khái thế này Chúng ta ai cũng đều sống ở trong một cái hang nọ, hai tay trói chặt và lưng hướng về cửa hang. Tia sáng xa xăm len lỏi qua cửa hang động, chiếu lên thân thể chúng ta, rọi bóng hình ta lên vách đá trước mặt. Mỗi người chúng ta chỉ có thể thấy được bóng mình loạng choạng chếch choáng hằn trên thành động, lại chẳng biết thế giới ngoài kia rộng lớn nhường nào. Tôi nghĩ rằng, Trang Tử muốn kể cho chúng ta về một người đã tìm thấy cửa hang kia, và bước ra bên ngoài. Trong Tiêu dao du », ông có viết Miểu cô xạ chi sơn, hữu thần nhân cư yên. Cơ phu nhược băng tuyết, náo ước nhược xử tử, bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long, nhi du hồ tứ hải chi ngoại; kỳ thần ngưng, sử vật bất tỳ lệ nhi niên cốc thục » Trên núi Diễu – Cô Tạ có thần nhân ở, da thịt như băng tuyết, dáng điệu mềm yếu như người con gái chưa chồng. Không ăn năm loài thóc, chỉ hớp gió, uống sương, nương theo hơi mây, cỡi rồng mà bay ngao du ngoài bốn biển. Ngưng thần lại thì có thể làm cho vạn vật không đau ốm hư hoại, lúa thóc lại được mùa Một vị thần nhân đã đắc đạo siêu thoát, sống trong tiên cảnh, da thịt trong suốt, chỉ nếm gió thưởng sương, nương gió đến, cưỡi mây đi, tiêu dao tự tại, người người hâm mộ. Thực ra ông đang dùng phép ẩn dụ, nói với chúng ta rằng mặc dù chẳng thể lay chuyển, trốn thoát khỏi cuộc sống này, nhưng thế giới tinh thần trong mỗi người đều có thể thăng hoa. Chỉ khi bạn thực sự siêu thoát, bạn mới có thể cảm nhận được hạnh phúc thực sự. *Siêu thoát Vượt ra khỏi mọi ràng buộc ở đời. Theo Phật còn có nghĩa là thoát ly, đứng ngoài vòng sinh tử luân hồi. Chỉ khi bạn học cách căm ghét » thế giới này, một chân trời khác mới mở ra trước mắt. Sự ghét bỏ ấy không phải ghét theo cách bạn nghĩ, mà là để bạn thoát khỏi mọi thứ, dùng ánh mắt khách quan chiêm nghiệm nhân sinh của chính bản thân mình. Nhìn thấu thế giới mà có người ngu thì có kẻ gạt, thấu hiểu khó khăn bấy lâu nay vẫn hành hạ mỗi người, bạn mới chợt ngộ ra rằng Thế giới này cũng chỉ như vậy, nhưng cuộc sống của ta không chỉ dừng lại ở đấy, còn bao cảnh đẹp hữu tình ta muốn chiêm ngưỡng, bao núi cao biển rộng ta muốn chinh phục bằng hết thảy sức mình. Thực lòng mà nói, sau khi đọc hết lắm chương nhiều chữ của Bách gia chư tử, Trang Tử là người chạm đến nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi. Phẩm cách bên ngoài quả thực rất quan trọng, nhưng tu dưỡng nội tâm mới là điều kiện tiên quyết đưa bạn đến bất kỳ đâu. Nếu trong lòng bạn không có một ngọn hải đăng sáng rực, sao bạn có thể tìm thấy hòn đảo bạn hằng mong đợi giữa biển cả bao la ? Trang Tử chính là người đã chỉ cho bạn con đường ấy. Bởi vậy, trong lòng tôi, Trang Tử là một đạo sĩ thực sự. Thực tế, Trang Tử cũng có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều tác phẩm văn học cũng như nhiều văn sĩ nhiều thế hệ tiếp theo. Ví dụ, trong bài thơ Ấm tửu kỳ 5 » của Đào Uyên Minh, có câu Thái cúc đông ly hạ. Du nhiên kiến nam sơn. » Dưới chân rào Đông hái nhành cúc. Khoan thai nhàn nhã ngắm núi Nam Phạm Trọng Yêm từng viết Bất dĩ vật hỉ, bất dĩ dĩ bi. *» * Không vui vì cảnh, không buồn vì mình – trích Nhạc dương lâu ký » Hay trong bài từ Thủy điệu ca đầu Trung thu » của Tô Thức có đôi dòng dưới đây Nhân hữu bi hoan ly hợp Nguyệt hữu âm tình viên khuyết Thử sự cổ nan toàn. » Người có lúc buồn vui ly hợp Trăng có lúc mờ tỏ vơi đầy Xưa nay khó gì trọn bề nguyên vẹn. Và thật nhiều những áng văn khác. Bạn có thể cảm nhận được tâm hồn cởi mở phóng khoáng và phẩm chất lạc quan của họ qua từng chữ từng từ. Vậy ai là người đã truyền cảm hứng ấy cho họ ? Không ai khác ngoài Trang Tử. Bởi vì, bọn họ cũng đã tìm ra được một thế giới khác, qua những lời Trang Tử để lại nơi đây. Và hạnh phúc thực sự bọn họ có được, âu cũng là nhờ việc họ rũ bỏ được những chấp niệm về thực tại, dành hết tâm sức để tìm kiếm niềm vui cho chính bản thân mình. _______________ Chú thích phần dịch thơ/giải nghĩa vừa dựa vào giải nghĩa tiếng Trung, vừa tham khảo bản dịch của một số dịch giả. Nguồn Vietwriter 310

tề vật luận của trang tử