Trong cuốn Tuyển tập các phương pháp và kỹ thuật tính tích phân có một bài toán nổ i tiếng mà nhiều thế hệ học sinh Việt Nam (từ năm 1998 cho đến nay) không tìm được lời giải. Nếu sử dụng "Phương pháp hệ số bất định" ở bậc đại học năm thứ nhất, lời giải phải mất hai trang A4.
CÂU HỎI PHẦN CƠ BẢN VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. Câu 1: Người sở hữu cổ phiếu và trái phiếu đều được hưởng: Lãi suất cố định. Thu nhập phụ thuộc vào hoạt động của công ty. Được quyền bầu cử tại Đại hội cổ đông.
Chỉ trong 7 tháng, Mỹ đã chi 19 tỷ USD để mua hơn 2 triệu tấn tôm cá các loại. Việt Nam vươn lên thành nhà cung cấp thuỷ sản lớn thứ hai về sản lượng cho Mỹ, song về giá trị thì vẫn đứng thứ 5. Số liệu thống kê của Cục Nghề cá biển quốc gia Hoa Kỳ ( NMFS) cho
Làm văn: PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý BÀI VĂN NGHỊ LUẬN A. Mục tiêu bài học: 1. Kiến thức: - Nắm được cách phân tích đề văn nghị luận - Biết cách lập dàn ý bài văn nghị luận. Bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Đọc văn: Câu cá mùa thu (Thu điếu Nguyễn Khuyến) 18 trang
Tải app Văn mẫu tổng hợp dùng trên điện thoại với hơn 30.000 bài văn mẫu hay nhất, giải bài tập văn SGK, soạn văn đầy đủ chi tiết. Bài viết hay Soạn văn lớp 9 tập 2 rút gọn Soạn bài: Tuần 19 - Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học
Thân bài: phân tích bài thơ Câu cá mùa thu 1. Hai câu đề "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Ao thu là một hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống thường ngày, cũng với thời tiết se lạnh và dòng nước trong veo Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được thể hiện qua hai câu thơ 2.
Đề số 1 Trắc nghiệm Ngữ Văn lớp 11: (có đáp án) Phân tích Câu cá mùa thu (Thu điếu) 1941 lượt thi 7 câu hỏi 15 phút BẮT ĐẦU LÀM BÀI Nhà thơ đã bao quát cảnh thu như thế nào? A. Cảnh thu được đón nhận từ cao, xa đến gần, rồi lại từ gần đến cao, xa. B. Cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao, xa rồi lại từ cao, xa trở lại gần
Top 10 Bài văn phân tích bài "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Top 10 Bài văn phát biểu cảm nghĩ bài "Mùa xuân của tôi" của Vũ Bằng hay nhất. Yopovn; 7/2/22; Ngữ văn Lớp 7 Bài giảng Powerpoint lớp 10,11,12 CÁC MÔN MỚI NHẤT LINK TRỰC TIẾP
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Tìm hiểu chung a. Tác giả Nguyễn Khuyến Quê ở Quế Sơn, sinh tại Nam Định nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở Yên Đổ, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. từ năm 1864 đến 1871 ông đỗ đầu hết cả ba kì thi nên được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Tuy đỗ đạt cao nhưng ông làm quan chỉ 10 năm, phân lớn cuộc đời ông dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp Đóng góp nổi bật của ông cho nền văn học dân tộc là ở mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng. Tác phẩm hiện còn hơn 800 bài cả chữ Hán và chữ Nôm gồm thơ, văn, câu đối, nhưng chủ yếu là thơ. Nội dung sáng tác Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè Phản ánh cuộc sống của những con người cực khổ, thuần hậu, chất phác Châm biếm, đả kích thực dân xâm lược và tầng lớp thống trị Bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước. b. Tác phẩm Xuất xứ Nằm trong chùm thơ mùa thu gồm ba bài của nhà thơ Nguyễn Khuyến Thể loại Thất ngôn bát cú đường luật Chủ đề Bài thơ bày tỏ tình yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng của tác giả trước thời thế. Đọc - hiểu văn bản a. Hai câu đề "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo" Khung cảnh ao thu, chiếc thuyền câu → hình ảnh bình dị, gần gũi với quê hương Không gian mùa thu không mở ra bát ngát mà thu hẹp lại trên một ao thu rồi đến một chiếc thuyền câu đã bé lại càng bé hơn như muốn thu mình vào cảnh "bé tẻo teo" Điểm nhìn đi từ cái nhìn bao quát đến cận cảnh từ ao thu đến chiếc thuyền câu Đường nét, sắc thái tinh tế của cảnh thu được bộc lộ qua các từ ngữ "lạnh lẽo", " trong veo", "tẻo teo" → cảnh thu cảnh thu vắng, lạnh, có chút đìu hiu ⇒ Cảnh thu hiện lên hết sức quen thuộc đối với làng quê Bắc Bộ Việt nhưng lại đìu hiu, vắng, lạnh và cái lạnh dường như thấm cả không gian. Phải chăng cái lạnh của không gian cũng là cái lạnh của lòng người b. Hai câu thực "Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" Sắc màu màu xanh biếc của sóng nước và sắc vàng của lá hòa thành màu sắc kì diệu của mùa thu Đường nét gió thu thoáng nhẹ, sóng gợn nhẹ nhàng, lá bay khẽ khàng → tô đậm thêm cái tĩnh lặng của mùa thu Nghệ thuật lấy động tả tĩnh ⇒ Phác họa mùa thu với màu sắc hài hòa, không gian tĩnh lặng với bao nhiêu cử động mà vẫn im lìm, mỏng manh, nhỏ nhẹ ⇒ phải có sự hòa điệu với thiên nhiên nhà thơ mới cảm nhận được những rung động mơ hồ của vạn vật, đât trời. c. Hai câu luận "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" Điểm nhìn mở ra cao rộng và sâu thẳm hơn "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt", "ngõ trúc quanh co" Từ "trời xanh ngắt" → mùa thu thêm lắng đọng, thêm tĩnh lặng hơn. Không gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng, gần như tim lặng tuyệt đối. ⇒ Cảnh thu đặp với sắc xanh của bầu trời thu, nhưng không khí thu dường như ngưng đọng lại trong khoảnh khắc, không người, không tiếng động...Phải chăng cảnh thu đã được vẽ nên bởi bao vương mang cảm nhận, tâm trạng riêng của thi nhân. d. Hai câu kết "Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo" Cái tôi trữ tình của nhà thơ - người câu cá xuất hiện cới trạng thái "tựa gối", "buông cần" → một sự chờ đợi mỏi mòn trong vắng lặng mênh mông ⇒ tư thế chứa đựng bao tâm sự thầm kín của thi nhân trước thời thế Tiếng cá "đớp động" dưới chân bèo → lấy động tả tĩnh → sự tĩnh lặng trong tâm hồn của thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc và dường như tuyệt đối bởi không gì tĩnh lặng đến mức nhà thơ có thể nghe được tiếng cá đớp mồi câu dưới chân bèo Từ "đâu" có hai cách hiểu → Đâu là phủ định hay đâu là phiếm định hay nghi vấn → gợi nên sự mơ hồ của cảnh, tạo nên không khí ảo diệu của mùa thu và cho ta thấy được thái độ tĩnh tại trong tâm hồn của thi nhân ⇒ Bức tranh thu yên ả, vắng lặng và tĩnh lặng đến mức tuyệt đối. Phải chăng, thi nhân phải có một tâm hồn nhạy cảm mới có thể có được những quan sát tinh tế trong mối giao hòa với thiên nhiên ⇒ Thể hiện tình yêu đối với thiển nhiên, với quê hương và thái độ không màng danh lợi nhưng vẫn ưu tư thời cuộc.
Nguyễn Khuyến là bậc túc nho tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng lại bất lực trước thời cuộc. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Nhắc đến ông, không ai lại không nhớ đến chùm thơ thu nức tiếng gồm ba bài, trong đó có “Câu cá mùa thu” “Thu điếu”. Bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp hồn thơ Nguyễn Khuyến Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèoTầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teoTựa gối ôm cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân thơ nằm trong chùm thơ có đề tài về mùa thu gồm ba bài nức tiếng “Thu vịnh” “Vịnh mùa thu”, “Thu điếu” “Câu cá mùa thu” và “Thu ẩm” “Mùa thu uống rượu”, sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, có bố cục bốn phần Đề, thực, luận, từ đầu bài thơ, người đọc đã thấy không gian quen thuộc của một buổi câu cá “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.Không gian ấy được mở ra bởi hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối, hài hòa “ao thu” và “thuyền câu”. Đó là những hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc bộ. Là “ao” chứ không phải là “hồ”, ao nhỏ hơn so với hồ. Bởi vậy mà chiếc thuyền câu “bé tẻo teo” xuất hiện giữa cái “ao”, tuy đối lập mà không trở nên lạc lõng, bất xứng; chúng làm nên một bức tranh thu hài hòa, cân đối. Ở câu đầu, thi nhân diễn tả cụ thể đặc điểm của “ao thu”. Có lẽ là đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã nhuốm hơi thở của tiết trời mùa đông, trở nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽo” vừa gợi ra thời tiết se lạnh vừa diễn tả cái tĩnh lặng của không gian. Cả mặt nước tĩnh lặng khiến cho làn nước mùa thu vốn đã trong lại càng trong hơn. Thi nhân dùng từ “trong veo” để nói cái trong ấy. Nước đã trong lại tĩnh lặng không gợn sóng nên dường như ngồi trên chiếc thuyền câu, ông có thể ngắm được rong rêu và cả bầu trời trong xanh phía dưới mặt ao. Cảnh thu thật đẹp, thật trong trẻo, thanh sơ. Hai câu thơ mà có đến bốn tiếng có vần “eo”, không chỉ có tác dụng miêu tả không khí lạnh lẽo, không gian eo hẹp rất đặc trưng của ao hồ vùng chiêm trũng Bắc bộ, mà còn gợi ra cảm giác buồn bã, cô đơn trong lòng người. Như vậy, ngay từ những nét vẽ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được những rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa câu thực tiếp tục những nét vẽ về mùa thu “Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo”Tác giả vận dụng tài tình nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí” của sóng và “khẽ đưa vèo” của lá rơi càng khắc họa nên cái tĩnh lặng của mùa thu làng quê Việt Nam xưa. Không gian có tĩnh lặng thì người ta mới nghe thấy những âm thanh rất nhỏ, rất khẽ ấy. Không chỉ miêu tả cái tĩnh lặng, hai câu thơ còn tiếp tục làm nổi bật vẻ đẹp trong trẻo, nên thơ của mùa thu. Sóng ở đây là “sóng biếc”, sóng của làn nước trong ánh lên màu xanh ngọc bích. Điểm xuyết giữa bức tranh thu ấy là màu vàng của chiếc lá thu rơi. Cũng như các nhà thơ khác, mùa thu gắn liền với lá vàng. Thế nhưng, Nguyễn Khuyễn khác hẳn họ ở chỗ, màu vàng lá thu trong câu thơ của ông chỉ điểm xuyết ít ỏi, chỉ len lỏi giữa màu xanh của làn nước, bầu trời, ngõ trúc…Ông không lấy màu vàng làm sắc màu chủ đạo, và màu vàng trong câu thơ cũng không phải là màu gợi ra sự héo úa, chết chóc. Nó đơn thuần là màu vàng đặc trưng của mùa thu Việt Nam, không hề mang hơi hướng của màu vàng trong thơ ca về mùa thu của thi nhân Trung Hoa xưa. Xuân Diệu cũng đã từng phát hiện ra điều này “Cái thú vị của bài “Thu điếu” là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Đọc hai câu thực này, người đọc cũng không thể không chú ý vào chữ “vèo”. Thu đến, những chiếc lá đã bắt đầu rời khỏi cành mà không còn lưu luyến. Chỉ cần một làn gió nhẹ, chiếc lá vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao. Không biết, sau này, Tản Đà có ảnh hưởng của Nguyễn Khuyến hay không mà cũng viết “Vèo trông lá rụng đầy sân” “Cảm thu, tiễn thu” và từng tâm sự rằng cả một đời thơ, ông chỉ vừa ý với câu thơ ấy. Tóm lại, hai câu thực vẫn tiếp tục là bức tranh thu trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ; qua đó người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà hai câu luận, không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu “Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co, khách vắng teo”.Trên cao là bầu trời cao, rộng, thoáng đãng, “xanh ngắt” với những áng mây “lơ lửng” giữa không trung. Cái màu “xanh ngắt” là nét đặc trưng đặc biệt của bầu trời thu quê hương cụ Tam Nguyên Yên Đổ, bởi vậy mà bài thơ nào trong chùm thơ thu cũng có màu xanh ấy “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao”.Thu vịnh“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.Thu ẩmTrên nền trời xanh là những áng mây “lơ lửng”. Từ láy này diễn tả những áng mây dường như không trôi theo làn gió mà ngưng đọng lại lưng chừng trời; đồng thời gợi ra trạng thái mơ màng của con người. Dưới mặt đất là “ngõ trúc” “quanh co”, ngoằn ngoèo, sâu hun hút, không hề có bóng người lại qua. Từ “quanh co” không chỉ tả con ngõ nhỏ sâu hun hút mà còn gợi cho người đọc liên tưởng đến những suy nghĩ không thông thoát của con người, khiến con người buồn, bởi vậy cảnh tuy đẹp mà tĩnh lặng, đượm buồn. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn cảm nhận được tâm hồn tha thiết với thiên hai câu kết, người đọc mới thấy bóng dáng của người đi câu cá “Tựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo”.Con người hiện ra trong tư thế nhàn “tựa gối buông cần”. “Buông” cần chứ không phải là “ôm” cần, bởi từ này diễn tả con người đang thả lỏng cần câu, ngồi câu mà không chú ý đến việc câu. Đó chính là hình ảnh của nhà thơ trong những ngày từ quan lui về ở ẩn. Chốn quan trường khiến ông “chướng tai gai mắt”, ông tìm về quê nhà với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua là để tìm một chốn thanh tĩnh mong thoát khỏi những ý nghĩ về thời cuộc. Thế nhưng, có lẽ, Nguyễn Khuyến không thể làm được. Đi câu mà chẳng hề chú ý đến việc câu, tâm trí ông phải chăng cứ miên man trong những suy nghĩ không nguôi về non sông, đất nước, bởi thế mà hình như ông giật mình khi nghe tiếng cá “đâu” đó đớp động dưới chân bèo. Tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo đã rất khẽ, rất nhẹ, lại còn là tiếng ở đâu đó vọng lại, thế mà vẫn đủ sức làm ông giật mình. Phải thật sự tập trung suy nghĩ thì mới như thế. Ở đây, hình ảnh người đi câu cá mang đậm dáng dấp của những “ngư, tiều, canh, mục” đời xưa, họ đều là những con người muốn lánh đục tìm trong, chờ thời đợi thế, những nhà nho yêu nước mà bất lực trước thời bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu họa của bức tranh phong cảnh đồng thời với việc vận dụng tài tình nghệ thuật đối, Nguyễn Khuyễn đã vẽ nên bức tranh thu trong trẻo, thanh sơ, tĩnh lặng và đượm nỗi buồn man mác từ cõi lòng thi lại, “Thu điếu” thực sự là bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam” Xuân Diệu. Qua bài thơ, ta hiểu được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước và tâm trạng thời thế của tác giả. Bài thơ nói riệng, chùm thơ thu nói chung sẽ còn mãi trong lòng người yêu thơ bao thế hệ.
Đề bài Phân tích bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến lớp 11 Lời giải chi tiết Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình. Nguyễn Khuỵến nổi tiếng với chùm thơ ba bài viết về mùa thu Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Có lẽ Nguyễn Khuyến đã viết theo lối “chùm ba” của Đỗ Phủ – đại thi hào Trung Quốc này nổi tiếng với “Tam biệt”, “Tam lại”…. Theo nhận xét của Xuân Diệu thì trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyên, bài thơ Thu vịnh mang cái hồn cua cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Thu vịnh mang cái thần của cảnh mùa thu xứ Bắc và cả tâm sự u uấn của thi nhân Trời thu xanh ngắt mấy từng cao. Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tảng khói phủ, Track thưa để mặc bóng trăng vào Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nến trời chấm phá một nét nhẹ, mềm của cảnh trúc Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Mùa thu của xứ Bắc có bầu trời cao xanh trong đã hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến là “trời thu xanh ngắt”. Màu sắc ấy là màu của trời thu mà cũng là cái tình tha thiết của thi nhân đối với mùa thu, đối với quê hương lang cảnh. Không gian mở ra thăm thẳm “mấy tầng cao”, một cần trúc trúc chứ không phải là tre vươn lên trên nền trời thu “xanh ngắt”. Nét cong mềm của “cần trúc” vươn lên một cách thanh cao, không ủy mị như rặng liễu đìu hiu buông xuống trong thơ mùa thu của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” gợi tả vẻ thưa thớt của những lá trúc lay động bởi gió heo could mùa thu. Từ láy “hát hiu” gợi được sự rung động của cành trúc, hay là sự rung động của tâm hồn thi nhân trước cảnh thu, trời thu đượm buồn? Bức tranh mùa thu trong Thu vịnh cứ được thêm hòa sắc mới, đường nét, hình ảnh mới Nước biếc trông như tầng khói phủ Track thưa để mặc bóng trăng vào Hình ảnh mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, thêm một sắc xanh tha thiết nữa, màu của áo thu trong xanh, với “khói phủ” nhạt nhòa. “Khói” dãy gợi nhứ “khói sóng” trong thơ Thối Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai . Cảnh đêm thu thật là huyền diệu. Lại thêm có trăng. Thi nhân mở ra đón trăng “Track thưa để mặc bóng trăng vào”. Trong đêm thu thanh tĩnh, trăng là người bạn tri kỉ của thi nhân. Có ánh trăng thu, bức tranh mùa thu trong thơ thêm sáng. Mọi vật trong đêm thu được pha thêm ánh trăng huyền ảo, mộng mơ. Cảnh thu thêm huyền hoặc, từ màu hoa cho đến tiếng chim Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Hoa mùa thu không đổi, không có sắc màu vì khói phủ nhạt nhòa hay nhà thơ mất hết ý niệm về thời gian? “Mấy chùm trước giậu” làm sao biết được đó là hoa gì, màu sắc như thế nào. Chỉ biết đó là “hoa năm ngoái”. Tứ thơ của Nguyễn Khuyến còn trừu tượng hơn, ở đây chẳng có hoa đào, hoa cúc gì cả. Hình ảnh “hoa năm ngoái” thể hiện thời gian ngưng đọng, tâm trạng bất biến của thi nhân. Câu thơ thể hiện một nỗi buồn man mác. Âm thanh mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ “ngỗng nước nào”. Tiếng ngỗng trời lạnh cả không gian mùa thu đã làm thổn thức nỗi lòng của thi nhân. Đêm thu huyền diệu dã gợi cảm hứng cho nhà thơ. Thi hứng cũng chợt đến trong nỗi niềm u uẩn của thi nhân Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Trước cảnh thu huyền diệu, nhà thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi lòng của mình. Theo quan điểm của Nguyễn Khuyến mà cũng là quan điểm của các nhà thơ chân chính, thơ gắn liền với nhân cách, nhân cách lớn thì thơ lớn. Rung động trước mùa thu, cất bút định làm thơ, Nguyễn Khuyến cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào ở đây tức là Đào Tiềm Đào Uyên Minh, một nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thời Lục Triều. Ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, rồi chán ghét cảnh quan trường thối nát đã treo ấn từ quan, lui về ẩn dật và có bài Qui khứ lai từ rất nổi tiếng. Sao cụ Nguyễn lại “thẹn” với ông Đào? Thái độ này chưa từng thấy đối với các thi nhân cổ kim. về khoa bảng, ông Đào đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn cũng đỗ tiến sĩ, cụ Nguyễn lại còn có Tam Nguyên, người đời gọi cụ là Tam Nguyên Yên Đổ. Về tài học, thơ của Nguyễn Khuyến kém gì thơ Đào Uyên Minh? Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ cổ điển lớn nhất của nước nhà được Xuân Diệu phong là “Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” và hết lời ngợi ca. Có lẽ cụ Nguyễn “thẹn với ông Đào” là về khí tiết. Cụ Nguyễn thiếu cái dũng khí của ông Đào, người đã tư quan một cách dứt khoát, trở thành một nhân vật lừng danh về khí tiết trong giới quan trường Trung Hoa. Còn Nguyễn Khuyến thì lúng túng khi ra làm quan thời đó ra làm quan tránh sao khỏi là tay sai của giặc Pháp và lừng khừng khi đồng cảm của người đời. Đã về ẩn dật rồi, cụ Nguyễn vẫn còn chưa nguôi ân hận về những năm tham gia guồng máy chính quyền thối nát tàn bạo thời bấy giờ. Câu thơ của một tấm lòng chân thực là nỗi niềm u uẩn của một nhân cách lớn, của một nhà thơ lớn. Thu vịnh là một bài thơ hay viết về mùa thu cua Nguyễn Khuyến. Bức tranh mùa thu với màu sắc thanh đạm, đường nét uyển chuyển, không gian cao rộng, cảnh vật huyền ảo dưới ánh nắng trắng trong thể hiện nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Nhân vẻ đẹp của đêm thu. Nhà thơ cũng bộc bạch tâm sự sâu kín, chân thật của mình hết sức cảm động. Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê hương đất nước của mình.
Bài văn mẫu Phân tích Câu cá mùa thu Thu điếu của Nguyễn Khuyến hay nhất đều được biên soạn và tổng hợp dưới đây. Các em cùng tham khảo để khám phá bức tranh mùa thu yên bình, mộc mạc nơi làng quê Bắc Bộ và những tâm sự thầm kín của nhà thơ cũng như làm bài tốt nhất. Mục Lục bài viết1. Dàn ý2. Bài mẫu số 13. Bài mẫu số 24. Bài mẫu số 35. Bài mẫu số 46. Bài mẫu số 5Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu, Thu Điếu của Nguyễn KhuyếnI. Dàn ý Phân tích Câu cá mùa thu1. Mở bài- Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh tịnh- Bài thơ Câu cá mùa thu Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn2. Thân bài* Hai câu đề- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà "ao thu", "chiếc thuyền câu" bé tẻo teo;+ Màu sắc "trong veo" sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu+ Hình ảnh Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ+ Cách gieo vần "eo" giàu sức biểu hiện...Còn tiếp>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu tại đây. II. Phân tích Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến1. Bài mẫu Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu, mẫu số 1Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà 1884Hai câu thơ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo - Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật trong veo - bé tẻo teo. Đó là một nét thu đẹp và êm mẫu phân tích bài thơ câu cá mùa thu lớp 11 chi tiếtHai câu thực Sóng nước theo làn hơi gợn tí - Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý vèo trông lá rụng đầy sân cảm thu, tiễn thu.Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơTầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây trắng hay hồng? lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mácDặm thế, ngõ đâu từng trúc ấyThuyền ai khách đợi bến đâu đây?Nhớ núi ĐọiNgõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc cùa làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khácTựa gối ôm cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân điếu nghĩa là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ veo - teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt HẾT BÀI 1 -Sau khi tham khảo bài mẫu phân tích bài câu cá mùa thu, để học tốt các bài thơ, bài văn trong chương trình Ngữ văn lớp 11, các em cần tham khảo các bài mẫu Soạn bài Lẽ ghét thương trích truyện Lục Vân Tiên, Đọc hiểu bài thơ Thương vợ, Soạn bài Chạy giặc, Tâm sự của nhân vật trữ tình qua bài thơ Tự tình,.... 2. Bài mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 2Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam". "Thu điếu" là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết."Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao "trong veo" toả hơi thu "lạnh lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên"lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ -"bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo""Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".Các từ ngữ "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng bài văn Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu hay nhấtHai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".Màu "biếc" của sóng hoà hợp với sắc "vàng" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông lá rụng đầy sân".Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" với những tầng mây "lơ lửng" trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là "xanh ngắt"- "Trời thu xanh ngắt mấy tầng caoThu vịnh- "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt".Thu ẩm- "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt".Thu điếu"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây mây xám, mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ"tầng mây lơ lửng đến "ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, ... có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo"."Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu, ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"...Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"...Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc"Thu điếu","Thu vịnh","Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam. 3. Bài mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 3Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu có lẽ làm cho người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn trong những trang thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã từng nhận xét “Là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèoTầng mây lơ lửng trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co khách vắng teoTựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn tượng là mật độ xuất hiện vần “eo” trong bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem có tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo sát trong tiếng Việt thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị là vần “eo” trong ngôn ngữ của ta thường làm cho không gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái khuôn khổ nhỏ nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn làm cho chiếc thuyền câu nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm khi nó được tác giả thấy rằng “bé tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng KhoaNgoài thềm rơi chiếc lá đaTiếng rơi rất mỏng như là rơi dẫn Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn KhuyếnTrở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, làm cho ta thấy dường như tiếng rơi ấy nó không là hiện thực mà nó đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó, người đọc và cả tác giả dường như không kiểm soát kịp nó có thật hay không nữa. Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phác họa của nhà hai câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng lớn như ở “Thu vịnh” mà nó bị giới hạn lại trong cái phạm vi nhỏ bé của “ao thu”. “Ao thu” hai tiếng ấy có vẻ gì đó là lạ, đặc thù. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự nhỏ bé khác thường của bộ khung ảnh được vẽ lên như một bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy. Nó có một cái gì đó ngồ ngộ, dễ thương và cuốn hút lạ thường. Nó thu tóm toàn bộ không gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh đây không gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ khoảng gian nhỏ bé của “ao thu” hướng về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí một, bồng bềnh trong bầu trời thu xanh ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa lại câu thơ“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó như mơ hồ, khó mà nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta một hình dáng của sóng. Nó không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch một câu châm ngôn cho rằng không có một vẻ đẹp xuất sắc nào mà không mang đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét đẹp rất nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn"Tựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo"Thế câu "Tựa gối ôm cần" thật lạ. Nó như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một việc gì đó rất dữ dội, nó như đang giằng xé lấy ông. Phải chăng đó chính là nỗi buồn thời cuộc, nỗi buồn mà đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào. Kết thúc bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật mạnh của cụm từ "đâu đớp động". Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ Cảnh vật ở trên được miêu tả là một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối bài thơ nó như bắt đầu tiếp nhận được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng khiến cho bài thơ im ắng vô cùng. Ba tiếng "đâu đớp động" chõi lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần "eo". Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ càng vắng lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng thơ còn mang trong nó một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh hài hòa cân đối, có một màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu một vẻ đẹp mới "Câu cá mùa thu" ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của cuộc đời này. Có cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức "Thu điếu" để thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp này hơn nữa ... 4. Bài văn mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mẫu số 4Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha - Trung Quốc. Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chăm chú, cũng hồi hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài thơ “Thu điếu” vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhàAo thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa mây lơ lửng trời xanh trúc quanh co khách vắng gối, ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênhAo thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo mẫu Phân tích bài Câu cá mùa thu của Nguyễn KhuyếnThuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thuSóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng, trước gió khẽ đưa thu không còn tĩnh lặng nữa mà đã nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu sóng biếc và hai thanh trắc ở cuối câu gợn tí. Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc" đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài vàng trước gió khẽ đưa thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo" trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi caCon nai vàng ngơ ngácĐạp trên lá vàng khôLưu Trọng LưVàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.Bích KhêVà đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian được mở rộng nên bức tranh "Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắcTầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,Ngõ trúc quanh co khách vắng da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh xao mà tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” Thu vịnh, “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí ấy “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét trúc thẳng đối lập với những nét quanh co của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viếtĐã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đòĐây mùa thu tớiBài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họaTựa gối, ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì một cử động đã làm cho nhà thơ sực tỉnhCá đâu đớp động dưới chân chữ “đ” đâu, đớp, dộng miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hòa vào thiên nhiên, vào non nước. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguyễn chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn một bài thì đó là bài “Thu điếu”. Bài thơ "Thu điếu” là kiệt tác trong nền thơ cổ điển nước nhà. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Thật là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của nhà thơ đối với quê hương làng cảnh, với non sông đất nước thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam. 5. Phân tích Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, mẫu số 5Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam", “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết."Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, Trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu "lạnh lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên "lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ - "bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo""Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"Các từ ngữ; "lạnh lẽo", "trong veo", "bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng tích Câu cá mùa thu để thấy được bức tranh làng cảnh đặc sắc trong thơ Nguyễn KhuyếnHai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"Màu "biếc" của sóng hoà hợp với sắc "vàng " của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ “tí” của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu” "Vèo trông lá rụng đầy sân".Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu Trời "xanh ngắt" với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc Trời thu là "xanh ngắt"."Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao"Thu vịnh"Da Trời ai nhuộm mà xanh ngắt"Thụ ẩm"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"Thu điếu"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây mây xám, mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ "tầng mây lơ lửng" đến "ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, ... có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo""Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh “cá đâu đớp động”, nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, Trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy ''buồn, cô đơn và trống vắng".Âm thanh tiếng cá "đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu "xanh ngắt" của bầu Trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu "lạnh lẽo "…Thật vậy, bài thơ “Câu cá mùa thu " là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa "vèo " trong làn gió thu, tiếng cá "đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần “eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết "Cái thú vị của bài "Thu điếu " ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh Trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"…Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc "Thu điếu", "Thu vịnh", "Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt HẾT -“Câu cá mùa thu” là tác phẩm nổi tiếng, hay xuất hiện trong các đề thi, bài kiểm tra môn Ngữ văn lớp 11. Cùng với việc tham khảo bài văn mẫu phân tích bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, các em cần lưu tâm đến các bài văn mẫu Bình bài thơ Thu điếu Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, Phân tích tâm trạng Nguyễn Khuyến qua Thu điếu, Hãy phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ độc đáo qua bài Câu cá mùa thu, Cảm nhận của em về bức tranh thu trong Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, Cảm nhận về bài thơ Câu cá mùa thu, để hiểu hơn về nội dung và ôn tập, rèn luyện kỹ năng viết văn phân tích bài Thu điếu của mình.
Hướng dẫn CÂU CÁ MÙA THU Thu điếu NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời Nguyễn Khuyến 1835 – 1909 hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng, sinh tại quê ngoại – xã Hoàng Xá nay là Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, lớn lên sống ở quê nội – làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Nguyễn Khuyến trưởng thành, đỗ đạt cao và ra làm quan giữa lúc đất nước ta bị thực dân Pháp xâm chiếm. Ông chỉ làm quan hơn mười năm rồi về quê nhà ở ẩn không họp tác với chính quyền thực dân Pháp. Các nhà nghiên cứu cho rằng ba bài thơ thu tả cảnh thu với những nét đặc biệt của mùa thu vùng đồng bằng Bắc Bộ quê hương ông. Nghĩa là chúng được Nguyễn Khuyến sáng tác khi ông về quê ở Hà Nam. thu trong thi ca trung đại Mùa thu là đề tài yêu thích trong thi ca trung đại. Vì thế nhà thơ dễ mô phỏng cách tả của các tác giả khác mà thiếu sáng tạo. Chẳng hạn, như nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét, nhiều bài thơ thu xưa thường tả cây ngô đồng vì thơ cổ Trung Quốc cô câu nổi tiếng “Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng tri thu” Một lá ngô đồng rụng – Thiên hạ đều biết thu đến. Cúc cũng là một hình ảnh phổ biến của thơ thu xưa. Bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến đã tránh được nhiều công thức tả thu và có tính sáng tạo độc đáo. II- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM vật trữ tình Trong bài thơ này, chủ ngữ thường bị tỉnh lược nên ta chỉ có thể suy đoán đó là ngưòi đang ngồi câu cá trên chiếc thuyền bé tẻo teo, đó cũng là chủ thể của hành động “tựa gối buông cần”. Người đi câu nhưng phân tâm, không để ý đến việc câu mà dường như đang nghĩ đến việc khác nên mặc dù cá có nhiều dưới bèo nhưng không cắn câu. Nhân vật trữ tình là hình ảnh của tác giả, là một điển hình nghệ thuật, phản ánh tâm trạng chung của một tầng lớp nho sĩ trong bối cảnh đất nước ta bị rơi vào tay thực dân Pháp. hệ Cảnh và Tình trong bài thơ Nguyên lí tả cảnh để thể hiện tình, tình nương tựa vào cảnh được thực hiện như thế nào ở bài thơ này? Ở nhiều bài thơ Đường luật đã học, có sự bày tỏ trực tiếp cảm xúc của nhàn vật trữ tình, ví dụ tiêu biểu là bài Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Nhưng trong bài Câu cá mùa thu, ta chỉ thấy tả cảnh, tâm sự, cảm xúc ẩn kín sau những câu tả cảnh chứ không thể hiện trực tiếp. Do đó, phân tích cảnh có ý nghĩa quan trọng để hiểu tình của nhân vật trữ tình. Chú ý các yếu tố thuộc không gian và thòi gian của cảnh trong bài thơ. -Về không gian Trời xanh ngắt, tầng mây lơ lửng. Dưới mặt đất có ao nước lạnh lẽo, những làn sóng xanh biếc gợn nhẹ, những đám bèo, và dưới lớp bèo là những con cá chứng tỏ sự hiện diện của chúng bằng việc đớp động dưói chân bèo, chiếc thuyền câu mà trên đó, chắc hẳn người câu đang ngồi. Trên bờ là một ngõ nhỏ có trồng trúc quanh co vắng vẻ. Các yếu tố không gian tổng hợp lại thành một bức tranh mùa thu điển hình ở nông thôn Bắc Bộ ao nhỏ, thuyền câu nhỏ, ngõ trúc nhỏ hẹp, quanh co, bầu trời thu xanh ngắt. -Về thời gian Xét về mùa, đây là mùa thu, khi thiên nhiên, đất trời ở Bắc Bộ đẹp nhất, mát mẻ, dễ chịu nhất trong năm. Nhưng thời gian trong cảm nhận của con người ở đây dường như ngưng đọng. Các dạng hoạt động có nhịp điệu chậm chạp sóng gợn lăn tăn, lá vàng khẽ bay trong gió, mây lơ lửng, ngõ vắng teo rất ít người qua lại, tiếng cá đớp nhẹ dưới chân bèo. Người ngồi câu cũng có tư thế gần như bất động “Tựa gối buông cần lâu chẳng được”. Nhịp thời gian ngưng đọng đó gọi ấn tượng về sự nhàn nhã của cuộc sống ẩn dật. -Về con người Trong bức tranh thu, con người dưòng như ẩn kín sau cảnh vật, hoà tan vào thiên nhiên, đất trời. Giống như trong bài thơ Uống rượu mùa thu Thu ẩm, chỉ tả ngôi nhà chứ không kể người ngồi trong nhà Năm gian nhà cỏ thấp te ; ở bài thơ này, chỉ thấy chiếc thuyền câu bé nhỏ chứ không nhắc đến người ngồi thuyền, chỉ nói đến hành động “tựa gối buông cần” mà không nhắc đến ai là người ngồi câu. Tâm sự của nhân vật trữ tình ẩn kín sau bức tranh thiên nhiên mùa thu. Để hiểu tâm sự ấy, cần vận dụng cả nhừng tri thức nằm ngoài văn bản bài thơ này, chẳng hạn như tâm sự thể hiện trong các bài thơ thu khác của Nguyễn Khuyến. Nhận xét Không gian và thời gian của bài thơ tạo nên một ấn tượng về cuộc sống ẩn dật, xa rời nhịp sống hối hả của đời thường. Chỉ có thiên nhiên trong sạch, yên tĩnh ao nước trong veo, bầu trời xanh ngắt, ngõ vắng vẻ. Tác giả – nhân vật người câu cá – tưởng như đang hưởng cảnh nhàn nhã. Chi tiết cá đớp động dưới chân bèo trong khi người câu tựa gối buông cần lâu chẳng được có thể hiểu theo hai nghĩa 1 người câu đang theo đuổi những ý nghĩ thầm kín, riêng tư nào đó mà không quan tâm đến hành động câu cá, chỉ khi tiếng cá quẫy dưới chân bèo mới kéo người câu quay trở lại vói việc câu cá của mình ; 2 người đi câu không quan tâm đến việc câu cá nên không để ý đến kết quả của việc câu, dưới ao vẫn có cá quẫy nhưng người câu không cần cá cắn câu. Dẫu hiểu theo cách nào thì ta cũng thấy nhà thơ về ở ẩn ở quê nhà để giữ trọn nhân cách của mình nhưng tấm lòng ông vẫn cứ canh cánh một mối bận tâm. Bài thơ Thu vịnh có bộc lộ târn sự sâu kín ấy qua câu “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”, chúng ta có thể nghĩ người câu cá bận lòng về thời cuộc, về thế ứng xử đạo đức trong bối cảnh đất nước mất tự do. Tình yêu, sự gắn bó tha thiết của tác giả vói quê hương bộc lộ khá rõ qua những quan sát hiện thực cụ thể, sinh động. Như trên đã nói, cảnh thu ở bài thơ không rơi vào công thức, khuôn sáo mà bao gồm những cảnh hiện thực, rất tiêu biểu cho cảnh thu của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với những ao vũng, những con đường làng nhỏ hẹp, quanh co, màu trời xanh ngắt cao vời vợi khi mùa thu về. Phải là người gắn bó, yêu mến những cảnh vật ấy thì chúng mới đi vào thơ một cách tự nhiên như vậy. ngữ nghệ thuật Nghệ thuật sử dụng tiếng Việt của tác giả đã đạt đến sự tinh tế, điêu luyện. Bài thơ không dùng điển tích, điển cố hoặc từ ngữ khó hiểu. Các từ được khai thác để diễn đạt các cảm giác khác nhau về mùa thu khơi gọi kinh nghiệm nơi người đọc. Mùa thu hiện lên qua các giác quan. Mắt nhìn thấy màu vàng của lá thu, màu xanh ngắt của trời thu, nước trong veo, làn sóng xanh biếc, con ngõ quanh co, vắng vẻ. Thân thể rùng mình vì cái lạnh của ao nước mùa thu. Tai nghe thấy tiếng bay vèo của lá vàng trước gió, tiếng cá đớp dưới lớp bèo. Những cảm giác của các giác quan này đã truyền cảm nhận về mùa thu của tác giả thông qua kinh nghiệm sống của độc giả, nên sống động, được chia sẻ mạnh mẽ. Các từ láy sử dụng trong bài thơ góp phần tạo nên ấn tượng nhẹ nhàng, chậm chạp, yên tĩnh, vắng vẻ của cảnh thu lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng, quanh co. Vần eo tạo cảm giác thu nhỏ, xa vắng nhiều tính từ, trạng từ vần eo gợi cảm giác này cheo leo, heo hút, tẻo teo,…. Cảnh thu nhìn từ quan điểm của một nhà nho ẩn dật đã được diễn tả bằng yếu tố tạo hình, tạo ấn tượng của từ ngữ rất thành công. XEM THÊM PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TỰ TÌNH NGỮ VĂN LỚP 11 TẠI ĐÂY Theo
phân tích bài câu cá mùa thu lớp 11