Văn học. - Văn học gồm chữ Hán và chữ Nôm. + Văn học chữ Hán: phát triển mạnh mẽ, chứa đựng sâu sắc lòng yêu nước, tự hào dân tộc. + Văn học chữ Nôm: bước đầu phát triển, xuất hiện một số nhà thơ nổi tiếng: Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sỹ Cố, Hồ Quý Ly. Bộ gõ Hán Nôm Hanokey này có thể dùng cho các thầy chùa, thầy cúng để Viết Sớ Hán Nôm, dùng như một phần mềm Viết sớ Hán Nôm tốt nhất. Hán văn và Chữ Nôm thông thường được gọi vắn tắt là Hán Nôm, ở Việt nam có cả Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, các thầy đồ Việt Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ. Chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều âm tiếng Việt đã dùng. Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Chữ Nôm là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán. Nó bao gồm các từ Hán Việt và một hệ thống các từ vựng khác được tạo ra dựa vào việc vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, giá tả, hội ý của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết. Tập viết chữ hán dành cho người mới bắt đầu Vai trò của chữ Hán dùng để ghi chép tiếng Việt chủ yếu là ghi lại các yếu tố Hán-Việt có trong văn bản Nôm. Nhưng chữ Hán cũng là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung Quốc. Vì thế nên, chữ Hán có tầm quan trọng trong các lĩnh vực về văn hóa và đời sống. chữ nôm "chết" là loại chữ đọc âm tiếng Việt theo nghĩa của chữ Hán 死 (tử). 2. Thà liều sống chết một ngày với nhau (câu 2532) chữ nôm thứ 4 khắc là ⿱托死 (thác/tử); nhiều bản quốc ngữ ghi âm đọc là "thác" (nghĩa là chết). Câu này ghi lại câu nói của Kiều, vừa nói vừa khóc, dưới chân Từ Hải — chết đứng giữa trận tiền. Văn học chữ Hán phát triển mạnh mẽ, văn học chữ Nôm bước đầu phát triển. Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời . Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội! Bài viết này sẽ giới thiệu đầy đủ 24 chữ cái (in hoa, in thường) của bảng chữ cái Hy Lạp cùng với cách đọc (phiên âm tiếng Việt)để những người chưa quen có thể tham khảo. Bảng chữ cái Hy Lạp và cách đọc. Trong bảng dưới đây, chữ viết đầu tiên là viết hoa Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. CHỈ CẰN GHI ĐÁP ÁN KO CẰN GHI ĐỀ Câu 11 Thời Lý, nội dung học tập chủ yếu là A. Văn học chữ Hán. B. Kinh Phật. C. Văn học chữ Hán và kinh Phật. D. Tất cả đều 12 Nơi nào được coi là trường học đầu tiên của quốc gia Đại Việt. A. Quốc Tử Giám. B. Văn Miếu. C. Chùa Trấn Quốc. D. Chùa Một 13 Dưới thời Lý, đạo Phật lại phát triển thành quốc giáo không vì lí do nào? A. Do đạo Phật phù hợp với đời sống văn hóa tinh thần của người ViệtB. Nhà Lý được thành lập dựa trên sự giúp đỡ của các nhà sưC. Tư tưởng thoát Trung trong buổi đầu mới giành độc lập của người ViệtD. Nho giáo không có tác dụng trong công cuộc xây dựng đất nướcCâu 14 An Nam tứ đại khí bao gồm những công trình kiến trúc- điêu khắc nào? A. Chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh LâmC. Chuông Quy Điền, vạc Phố Minh, Cữu Trùng đài, tháp Chương Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tháp Bình Sơn, tượng phật chùa Quỳnh LâmCâu 15 Vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lý là ai ?A. Lý Huệ Tông B. Lý Cao Tông C. Lý Anh Tông D. Lý Chiêu HoàngCâu 16 Âm mưu của Mông Cổ trong chiến tranh xâm lược Đại Việt lần 1 là gì? A. Xâm lược Đại Việt để giải quyết những khó khăn trong nước. B. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công Nam Tống. C. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công Cham-pa. D. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công các nước phía nam Đại 17 Trước nguy cơ bị quân Mông xâm lược, triều đình nhà Trần đã có thái độ như thế nào? A. Kiên quyết chống giặc và tích cực chuẩn bị kháng chiến. B. Chấp nhận đầu hàng khi sứ giả quân Mông Cổ đến. C. Cho sứ giả của mình sang giảng hòa. D. Đưa quân đón đánh giặc ngay tại cửa 18 Câu nói “Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng” là của ai? A. Trần Quốc Toản. B. Trần Thủ Độ. C. Trần Quang Khải. D. Trần Quốc 19 Chủ trương đánh giặc nào được nhà Trần thực hiện trong cả ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. A. Tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc. B. Chặn đánh ngay từ khi quân giặc vừa tiến vào nước ta. C. Thực hiện “vườn không nhà trống” D. Kiên quyết giữ Thăng Long, đào chiến lũy để chống 20 Trận đánh lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất là A. Trận Quy Hóa Yên Bái, Lào Cai. B. Trận Thiên Mạc Duy Tiên, Hà Nam. C. Trận Đông Bộ Đầu bến sông Hồng, ở phố Hàng Than – Hà Nội. D. Trận Bạch Đằng. Chữ Nôm là loại văn tự được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, được sử dụng nhiều từ thế kỉ X đến XX. Đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam được viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là gì? Cả hai từ “chữ” và “Nôm” trong “chữ Nôm” đều là các từ Hán Việt cổ. Trong đó từ “chữ” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “tự” 字. Còn từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “nam” 南. Như vậy, ý tên gọi chữ Nôm là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam, tức là người Việt. Vậy thì chữ Nôm là loại chữ gì? Là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán. Nó bao gồm các từ Hán Việt và một hệ thống các từ vựng khác được tạo ra dựa vào việc vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, giá tả, hội ý của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết. Cũng như việc biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. – Ví dụ 1 Chữ bán 半 trong chữ Hán có âm Hán Việt là bán nghĩa là một nửa, nhưng chữ Nôm mượn âm và hiểu theo nghĩa là bán trong mua bán. – Ví dụ 2 Có những chữ Nôm lại mượn nghĩa của hai chữ Hán để tạo ra âm Nôm như từ mệt được ghép bởi chữ 亡 vong nghĩa là mất + chữ 力 lực nghĩa là sức, tức là mất sức nên mệt. – Ví dụ 3 Chữ trời được ghép bởi chữ thiên 天 và thượng 上 thượn, thiên ở trên là trời. Chữ Hán Chữ Hán hay còn gọi là Hán tự là chữ Trung Quốc. Trong chữ Hán bao gồm có 2 loại Chữ Hán cổ phồn thể và chữ Hán hiện đại chữ giản thể. Đây là một dạng chữ viết biểu ý của Trung Quốc sau đó đã du nhập vào các nước lân cận như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Từ đó tạo nên vùng văn hóa chữ Hán, tại các nước này chữ Hán được vay mượn để tạo nên ngôn ngữ mới cho mỗi nước. Trong các văn bản ở Việt Nam, chữ người Việt dùng được gọi là chữ Nho, tức là chữ Hán cổ. Tuy nhiên, người Việt không phát âm chữ Hán như người Trung Quốc bằng cách dùng Pinyin để đọc. Mà người Việt đọc bằng âm Hán Việt, đây là một sáng tạo mới trong việc củng cố phát âm chữ Hán của người Việt. Chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ là hệ chữ viết chính thức trên thực tế de facto hiện nay của tiếng Việt. Bộ chữ Quốc ngữ sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp. Tên gọi “chữ quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ Tây quốc ngữ. Về sau từ Tây bị lược bỏ đi để chỉ còn là chữ quốc ngữ. “Quốc ngữ” nghĩa mặt chữ là ngôn ngữ quốc gia, ở Việt Nam nếu không có từ bổ nghĩa kèm theo cho thấy từ quốc ngữ được dùng để một ngôn ngữ nào khác thì quốc ngữ mặc định là chỉ tiếng Việt. Văn học chữ Nôm và các tác phẩm nổi tiếng Việt Nam Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán khoảng cuối thế kỉ XIII, tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại. Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật. Còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ lục bát, hát nói viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc, hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên. Truyện Kiều bằng chữ Nôm Truyện Kiều của Nguyễn Du Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều Tống Trân Cúc Hoa Phạm Công Cúc Hoa Sau phút chia li – Đoàn Thị Điểm Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu Đập đá ở Côn Lôn – Phan Châu Trinh Muốn làm thằng Cuội – Tản Đà Hai chữ nước nhà – Trần Tuấn Khải Trên đây là một số thông tin khái quát về chữ Nôm. Bác Nhã hy vọng đã cung cấp cho bạn những điều còn băn khoăn. Đừng quên cập nhật website để đọc các bài viết hay nhé! Xem thêm Tuyển tập 1 số file luyện viết chữ Hán miễn phí Những kỹ năng giao tiếp tiếng Trung khi gặp khách hàng Trước khi tìm hiểu chữ Nôm, tìm hiểu sơ lược về chữ HánChữ Hán, hay Hán tự chữ Hán phồn thể 漢字, giản thể 汉字, Hán văn 漢文/汉文, chữ Trung Quốc là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung Quốc. Chữ Hán có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước. Tại Trung Quốc, trước thời nhà Tần, chữ Hán được gọi là văn 文 hoặc danh nhà Tần cho đến trước khi tên gọi Hán tự 漢字 chữ Hán trở nên phổ biến chữ Hán thường chỉ được gọi là văn 文, tự 字 hoặc văn tự 文字. Theo sách Thuyết văn giải tự 說文解字 do Hứa Thận biên soạn vào thời Đông Hán thì giữa văn 文 và tự 字 vốn là có sự phân công ý nghĩa, chứ không phải là hoàn toàn đồng nghĩa. Văn 文 là chỉ chữ tượng hình và chỉ sự, tự 字 là chỉ chữ hình thanh và hội ý. Về sau người ta không còn phân biệt văn 文 và tự 字 nữa, chữ viết dù thuộc loại gì cũng đều có thể gọi là văn 文 hoặc tự tên gọi dùng để chỉ chữ Hán đã nêu ở trên đều có nghĩa là chữ, chữ viết, chúng không phải là tên gọi chuyên chỉ chữ gọi Hán tự 漢字 xuất hiện sớm nhất là trong Kim sử, một bộ sách sử được biên soạn vào thời nhà Nguyên. Tuy nhiên khi đó Hán tự 漢字 không phải là một tên gọi phổ biến của chữ Hán. Chỉ cho đến thời cận đại tại Trung Quốc đại lục lịch sử Trung Quốc cận đại thường được tính là từ năm 1840 đến năm 1949 tên gọi Hán tự 漢字 mới dần dần được biết đến và sử dụng rộng dụ viết chữ Hán = chữ Nho, con Ngựa, viết 馬 phát âm là mã. Danh từ chữ nho được dùng để chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt NômChữ có nghĩa là văn tự, Nôm có nghĩa là lời nói hay là Nam đối lập với Trung Quốc cả từ này có nghĩa là văn tự của lời nói hay văn tự của nước Nam, nó đối lập với văn tự chính thống chữ Nho = chữ Hán với ý nghĩa là văn tự của nhà Nôm thuộc loại hình văn tự khối vuông nghĩa là toàn bộ chữ được cấu tạo trong một ô vuông, được xây dựng trên cơ sở chất liệu là chữ Hán và được đọc theo âm dụ ChữNômviết 字 喃Viết theo chữ Hán còn gọi chữ Nho 國 音Viết theo chữ Quốc ngữ hiện nay Chữ NômHán ViệtTừ Hán-Việt là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng ký tự thể bạn quan tâmKTM 2023 và 2022 có gì khác nhau?Mua cây Tùng La Hán giá bao nhiêuNAB 2023 có gì đặc biệt?Có bao nhiêu số tự nhiên gồm 4 chữ số đôi một khác nhau lập ra từ các chữ số 2;4 6;8Từ các chữ số 0 1 2 3 4 5 có thể lập được bao nhiêu số tự nhiên chia hết cho 5Điển hình bài thơ Hán ViệtSàng tiềnminhnguyệt quang,Nghi thị địa thượng đầu vọngminhnguyệt,Đê đầu tư cố ra tiếng Quốc NgữĐầu tường trăng sáng soi,Ngỡ là sương trên mặt đầu nhìn trăng sáng,Cúi đầu nhớ cố âm Pinyin tiếng TrungChuáng qián míng yuè guāngYí shì dìshàng shuāngJǔ tóu wàng míng yuèDītóu sī gùxiāngDịch ra tiếng AnhHead moon light,The mist is on the your head to look at the bright moon,Bow to dụ thêm 1 bài thơ nổi tiếng của Lý Thường Kiệt Nam Quốc Sơn HàViết theo tiếng Hán南國山河南 國 山 河 南 帝 居截 然 定 分 在 天 書如 何 逆 虜 來 侵 犯汝 等 行 看 取 敗 虛Phiên âm phát âm Hán-ViệtNam Quốc Sơn HàNam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên phận định tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hưBản dịch của Trần Trọng Kim ra tiếng Quốc ngữSông núi nước NamSông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận ở sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh tơi thể nói, chiếm một góc trong vành đai văn hóa Hán nói trên là Việt Nam. Một mặt, Việt Nam ở vào vị trí giữa của vành đai văn hóa Đông Á, có hoàn cảnh rất giống Nhật Bản ở chỗ cùng là điểm mà nhiều dân tộc dừng chân lại. Mặt khác, trong điều kiện địa lý tiếp giáp với Trung Quốc rất chặt chẽ, trên lục địa, Việt Nam cũng có điểm khá giống với Triều Tiên. Một điều hiển nhiên nữa là Việt Nam cũng giống Triều Tiên, cả hai nước cùng chịu sự thống trị lâu dài về chính trị của Trung Quốc, và cùng nảy nở nền văn hóa độc lập. Nói về mặt ngôn ngữ, tiếng Nhật và tiếng Triều, khác với tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ mang tính đơn lập cao, chúng thuộc loại hình ngôn ngữ chắp dính ngôn ngữ Altai. Cả hai ngôn ngữ này đều khó tiếp thu sự đồng hoá ngôn ngữ một cách triệt để. Trong khi đó, tiếng Việt cùng loại hình ngôn ngữ với tiếng Trung Quốc, nguy cơ đồng hoá ngày có nét khác hơn. Lịch sử văn tự này có nét rất đặc trưng. Nó chịu sự chi phối của Trung Quốc vào năm 111 trước CN, trong vòng 840 năm, kể từ khi chữ Hán trở thành văn tự chính thức bắt đầu từ lúc có chế độ khoa cử 1075, cho đến khi không còn chế độ khoa cử vào năm 1915 miền Trung 1918, chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức, Hán văn trở thành văn chương chính thức ở nước này. Tức là đối với trí thức Việt Nam, việc thông hiểu Hán văn tiếng Trung Quốc là điều kiện không thể thiếu được. Có thể nói đó là việc quan trọng hơn việc thông thạo tiếng mẹ đẻ. Và thế là biết chữ thực tế không có gì khác là biết chữ cầu ghi lại tiếng nói dân tộc Cũng giống như người Nhật, người Triều Tiên, trong một bộ phận tầng lớp trí thức này sinh nhu cầu muốn ghi lại tiếng nói dân tộc. Lúc này, người Việt cũng giống như người Nhật nảy sinh ý nghĩ thử ghi lại tiếng nói dân tộc bằng cách dùng chữ Hán vốn đã có bên cạnh mình và gia công thêm một chút. Đó là việc nảy sinh văn tự gọi là chữ Nôm xuất hiện ở Việt Nam khi chữ Hán đã vào Việt Nam và đã được hình thành một cách có hệ thống âm Hán Việt, nên ban đầu chữ Nôm thuần túy ghi âm Việt. Dần dần có những chữ Hán không ghi được âm Hán Việt cho nên các chữ Nôm sáng tạo được ra đời. Khi ý nguyện sáng tạo ra một dạng chữ riêng của người Việt trở nên mạnh mẽ hơn trong thời Lê, những chữ Nôm được tạo ra một cách có ý thức hơn đã giúp cho sự hình thành thêm nhiều chữ Nôm mới đủ để biểu đạt được tâm tư, nguyện vọng, tâm hồn và khí phách dân tộc trong các tác phẩm văn chương như thơ, phú, chiếu, cáo, biểu sáng tạo đó đã để lại cho đời sau những di sản thơ Nôm vô giá từ những bài thơ của Nguyễn Hàn Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, từ Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông đến Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ Đại Nam quốc sử diễn ca đến Đoạn trường tân thanh; từ những bài thất ngôn bát cú thơ Nôm của Hồ Xuân Hương đến dạng song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ lục bát với Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Rồi thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương và không ít những tác phẩm Nôm khuyết danh như Thạch Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Tấm Cám, Lưu Bình Dương Lễ Nôm được dùng song song với chữ Hán cho đến thế kỷ 16, khi các nhà truyền đạo phương Tây vào Việt Nam, họ đã dùng ký tự Latinh để phiên âm tiếng Việt, và chữ Quốc ngữ bắt đầu ra đời. Chữ Quốc ngữ bằng kýtự La Tinh dần dần thay thế chữ Hán Nôm do sự đơn giản dễ nhớ dễ học, thêm nữa, chữ Quốc ngữ tỏ ra hữu dụng khi phiên âm được các dấu thanh trong tiếng Việt. Chữ Nôm còn được dùng cho tới cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhưng ngày càng suy yếu trước sự bành trướng của chữ Quốc sản này hiện nay có nguy cơ tiêu vong. Sau khi chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latinh phổ biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Năm 1920, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm dùng chữ Nôm. Khi tiến trình Âu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ và được sự cổ súy của thủ lĩnh các phong trào duy tân đương thời, chữ Quốc ngữ đã trở nên phổ biến và khẳng định chỗ đứng của nó trong hệ thống văn tự mới của dân tộc theo mô hình phương Tây, thoát khỏi ảnh hưởng của phương Bắc. Đỉnh cao của chữ Quốc ngữ với Thơ mới và Tự lực văn đoàn đã trở thành sự cáo chung đối với văn tự truyền nay, ở Việt Nam và thế giới rất ít người còn đọc được văn bản chữ Nôm từ nguyên tác. Một phần quan trọng của lịch sử Việt Nam đã nằm ngoài tầm tay của 95 triệu người nói tiếng Quốc ngữ ra đời tuy đơn giản, dễ nhớ dễ học. Tuy nhiên, có nhiều từ Việt bị dùng sai, nhưng do dùng lâu quen và do đó từ sai trở thành từ đúng ví dụ khốn nạn. Và cũng chính vì việc từ khi sử dụng chữ Quốc ngữ không tiếp tục giảng dạy và học chữ Hán Nôm đã làm cho những thế hệ người Việt ngày nay không còn biết đến chữ Hán Nôm nữa, và không thể đọc được những tư liệu sách vở trong kho di sản Hán Nôm ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Chính vì điều đó mà ít có thế hệ người Việt sau này có thể hiểu rõ và dùng đúng tiếng Việt như nghĩa thật sự của nó vì khoảng 70% tiếng Việt được hình thành từ tiếng Hán-Việt.Chữ Nôm được đặt ra cũng còn để thỏa mãn nhu cầu quân sự và chính trị. Căn bản là chữ viết nhìn thì giống như chữ Hán nhưng phát âm và ý nghĩa thì hoàn toàn khác. Do đó khi Trung Quốc muốn tìm hiểu Việt Nam để mưu đồ xâm lăng, họ sẽ phải học thuần tiếng Nôm để thông thạo tình hình và đả thông các văn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại nên khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Cách đọc cũng có khi không thống nhất hoặc một chữ có thể có nhiều cách đọc, nên có người nói rằng "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán". Ngoài ra, việc "tam sao thất bản" là khó tránh khỏi, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao chữ bị nhòe, mất nét.Đó là những hạn chế của ông cha, với một lịch sử không thể thay đổi mà dân tộc ta phải chấp nhận, để lại xúc cảm ngậm ngùi cho mỗi con dân Việt khi nhìn sang tiến trình bản địa hóa một cách có chọn lọc văn tự của Trung Hoa của những quốc gia đồng văn như Nhật Bản, Triều Tiên, những quốc gia đã thành công trong việc giản hóa chữ Hán thành những ký hiệu biểu âm thuận tiện khi sử dụng hơn rất nhiều. Đặc biệt là Triều Tiên với hệ thống 23 ký tự hết sức khoa học và dễ sử dụng do Hoàng đế Sejong sáng tạo đủ sức biểu đạt tư duy ngôn ngữ của dân tộc hoàn toàn không cần phải sử dụng các thành tố chữ hợpTài liệu biên khảo 5Kinh Dương Vương vua của nước Xích QuỷAn Dương Vương Thục Phán nước Âu LạcTriệu Đà nước Nam Việt rộng lớn6 điều bí mật về phụ nữ thời La Mã cổ đại7 vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử7 điểm tộc Dayak giống người Việt cổ trên đảo Borneo316 Năm Vương Triều ĐẠI LÝ 22 Đời Vua Họ ĐOÀN900 Năm Triều Đại Nhà CHU Dài Nhất Lịch Sử TQ Giải Mã Qúa Trình Nhà TẦN Thôn Tính Nhà CHU1500 Năm Hình Nước ĐỨCAi Cập Cái nôi của nền văn minh nhân loạiAlexander Đại đế Có ước mơ trở thành một chiến binh anh hùngChuyện về Phạm Ngũ Lão và Mạc CửuChữ Nôm là gì? Chữ Hán. Hán ViệtDANH TƯỚNG VÕ TÁNHDanh sách các tướng lĩnh thời Hai Bà Trưng của nhà nước Lĩnh NamHồ Động Đình- hồ nước linh thiêng trong huyền sử Việt + Lưỡng Quảng ngày nayCuộc đời Mahatma GandhiCó phải tại Trung Quốc vẫn còn đền thờ Hai Bà Trưng và quân tướng Lĩnh Nam ?Bách Việt là ai ? Hán & Bách ViệtDiện tích nước Việt cổ xưa rộng như thế nào? Lịch sử Việt NamDanh tướng Trần Khát ChânDương Diên Nghệ 874 937Dân tộc Mãn ChâuHịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn Áng văn bất hủHồ Động Đình- hồ nước linh thiêng trong huyền sử ViệtHùng ca sử Việt-Lý thường KiệtHùng Ca Sử Việt Quang Trung và Vùng Đất Lưỡng QuảngHoàng hậu Theodora, phụ nữ quyền lực bậc nhấtGiải mã bí ẩn Lăng vua Tự Đức công trình Lăng Tẩm đẹp nhất xứ HuếKhảo sát Tiếng Việt quyến rũ thứ nhì châu ÁKhám phá Nhật Bản và 7 thời kỳ Nhật BảnKhởi nghĩa Lam Sơn Lê Lợi Chống quân Tàu nhà MinhLịch Sử 13 Triều Vua Nhà THANH 276 Năm Thịnh Suy Trong Lịch Sử Trung QuốcLịch sử Iran lịch sử Ba TưLịch sử SingaporeLịch sử Hong KongLịch sử Hàn QuốcLịch sử Nhật Bản & 8 VIDEOS Lịch sử Thái LanLịch sử Đài LoanLỊCH SỬ PHI LUẬT TÂNLịch Sử Campuchia Cao Miên Quốc 2000 Năm Lịch SửLý do suy sụp của siêu đô thị cổ đại AngkorNhân Tông Trần Khâm Đức Phật giữa hoàng triềuMạnh Thường QuânMông Cổ MongoliaMai Hắc Đế Mai Thúc LoanNguồn gốc chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là công trình sáng tạo của cả một tập thểNgười Kinh ở Trung QuốcNguyên nhân dẫn tới Chiến tranh thế giới lần thứ nhấtPhùng Hưng 761-802Sau ngàn năm Bắc thuộc, tại sao Việt Nam không bị nhập vào Trung Quốc?Thế giới hiện nay có tổng cộng 204 quốc gia. Top 10 quân đội mạnh nhất thế giớiTiếng Quan Thoại Mandarin và tiếng Quảng Đông Cantonese được nói ở đâu?Tại sao có quốc gia nghèo, quốc gia giàu? Nước giàu, nước nghèo?Tổng Thống Đầu Tiên Của Hoa Kỳ George WashingtonTóm tắt nhanh lịch sử các triều đại Trung QuốcTrận đánh lớn nhất của Thành Cát Tư Hãn. Nhà Kim. Đại Liệu Khiết Đan bị diệt vongTRƯƠNG MINH GIẢNG ?-1841 TỔNG ĐỐC THỨ HAI TỈNH AN GIANGTứ Đại Mỹ Nhân Việt Nam Công chúa Huyền Trân, An Tư, Ngọc Hân và Lý Chiêu HoàngThiên Ninh Công Chúa Đóa Huyết Hoa Nhà TrầnThuyết Minh Việt Ngữ Phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại nhà máy Whirlpool, tiểu bang OhioViệt Nam không hề đánh chiếm Thủy Chân LạpTài liệu biên khảo 2Quốc khánh Hoa Kỳ Vì sao xã hội Mỹ không hoàn hảo nhưng luôn tốt hơn?Những giá trị Mỹ và cộng đồng gốc Việt10 sự thật về Hy Lạp cổ đạiFukuzawa Yukichi với khuyến học thời 1834 1901TN InfoWay Xa Lộ Thời NayHome Trang Shopping NetworkHotel Reservations Find The Best Hotel DealsBusiness NewsGiải tríLƯU DIỆU VÂN Poet, Translator, and EditorÂm nhạcÂm nhạc Thơ nhạc Hồng ThúyDu lịch thế giới Khám pháChuyện lạ Bạn đọc biếtCuộc sống khắp nơi Chia sẻHình ảnhĐời sốngHọc tiếng Anh mỗi ngàyTập thể thao hàng ngày Thân hình đẹp và khỏe AerobicsDanh ngôn Lời hay ý đẹpGia chánhKinh tế Quản trị Khởi nghiệpLàm đẹpTình yêu Hôn nhân Gia đình Ngoài văn hoá dân gian truyền miệng còn có dòng văn học chữ viết, lúc đầu là chữ Hán, sau chữ Nôm rồi đến chữ Quốc ngữ như ngày nay. Dòng văn học này trải qua nhiều thời kì. Những văn bản sớm nhất hiện tìm thấy có từ thế kỉ thứ X, tạm chia làm hai giai đoạn Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX Từ đầu thế kỉ XX đến này. Bạn đang xem Các tác phẩm văn học chữ hán Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Trong giai đoạn này, văn học thành văn được viết bằng hai thứ chữ chữ Hán và chữ Nôm. Mặc dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam không bị đồng hoá mà dần dần hình thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Chữ Nôm xuất hiện từ rất sớm nhưng từ thế kỉ XVI trở đi văn học chữ Nôm mới thịnh hành và đến thế kỉ XVIII thì văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển về ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm ngày càng phát triển. Văn học chữ viết hình thành và phát triển Trong nhiều thế kỉ, văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ yếu trừ một vài trường hợp như triều Hồ Quý Ly và Quang Trung coi trọng chữ Nôm, tuy sử dụng chữ Hán nhưng các tác phẩm văn học ấy vẫn thấm đượm tính cách và tâm hồn Việt Nam như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, những bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân nhà Trần của Phạm Ngũ. Lão, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, vv. Tiếp đến là những bộ sử dược viết với một ý thức dân tộc mạnh mẽ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, w. Thế kỉ XV, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Nguyễn Trãi là người nêu cao tiếng Việt và vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Tập thơ Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi trong thời kì này là một trong những tập thơ Nôm xưa nhất có giá trị đến ngày nay. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ chiếm ưu thế hoàn toàn trên văn đàn. Những nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu ra đời Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, w, Từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các tác phẩm văn học bằng chữ Quổe ngữ dần dần xuất hiện. Nền văn học Việt Nam hiện nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu cả nền văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp, đã đưa nền văn học Việt Nam phong phú hơn và đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam dần dần đã tách khỏi phong cách cổ điển với những điển tích nặng nề, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ hàng ngày hơn. Năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam ra đời Tố Tàm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào thơ mới được coi là “một cuộc cách mạng” trong thơ ca, những quy tắc gò bó, lối diễn đạt ước lệ, công thức bị phá bỏ, cảm xúc được diễn tả tự nhiên, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, w. Về Văn học lãng mạn nổi lên có nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam và một số nhà văn trẻ, w. Dòng văn học này tuy có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn phải kể đến dòng Văn học hiện thực phê phán. Các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thăm đượm tinh thần nhẫn dạo. Trào lưu này đã cho ra dời những tác phẩrn thật sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước dường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tẩt Tố, Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bi vò của Nguyễn Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, w. Cùng với hai trào lưu trên còn có trào lưu Văn học cách mạng nhưng không được lưu hành hợp pháp tuy có lúc được lưu hành hợp pháp. Trào lưu văn học này gồm những thơ văn của các chiến sĩ cách mạng ở trong tù và những tác phẩm được xuất bản trên báo chí nước ngoài. Những tác giả tiêu biểu cho trào lưu này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ, vv. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nền Văn học hiện đại được phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm ra đời trong thời kì này như những mốc son đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Các tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tầm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, w. là thành quả của nền văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài 21 năm, nhiều tác phấm văn học nổi tiếng đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như Hòn đất của Anh Đức, Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Trên đất Quảng, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi. Và các tác phẩm thơ Quê hương của Giang Nam, Dáng dứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca Chim Chơ-rao của Thu Bồn, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, w. Hiện nay các nhà văn, nhà thơ đang có gắng đưa văn học Việt Nam sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam đi lên trong hoà bình và ổn định. Nguồn

văn học chữ hán và chữ nôm