Tin tức mới nhất về Cody Gakpo: Thông tin, hình ảnh, sự kiện và video nổi bật liên quan Cody Gakpo được cập nhật nhanh và liên tục. Dem nay troi da khuya ma toi van thao thuc ,khong sao ngu duoc . Hinh anh thuong tam cua vu tai nan vua xay ra luc chieu 18> tai noi toi o duong Hoc Lac p8 My tho.Trong tich tat 2 nguoi dang khoe manh bong tro thanh ke hap hoi duoc cap cuu tai Benh vien,tanh mang nguy hiem,ngan can treo soi toc. Nghệ sĩ Mai Lan (ngồi xe lăn) nhận quà Tết 2018. 27 tuổi, đang thời xuân sắc, sự nghiệp rực rỡ, Mai Lan đám cưới, sinh con. Những tưởng tuổi thơ đơn côi sống cùng mẹ, giờ đây Mai Lan sẽ có được một gia đình trọn vẹn, hạnh phúc khi tạo lập gia đình. Danh ca Lệ Thu vừa qua đời: Số phận đặc biệt, cát-xê cao ngất ngưởng, chỉ cúi đầu trước một người. Lệ Thu được xếp vào thế chân vạc bất tử trong âm nhạc. Cô là một trong ba đại danh ca huyền thoại của nền tân nhạc Việt Nam trước 1975, cùng danh ca Thái Thanh và Vào cung vua, anh ta lấy gạo vo sạch, rồi bắc lên bếp trên kiềng 2 chân nên nồi cứ đổ hoài, công Chúa đi qua, thấy gai mắt, công Chúa nói: "Anh kia sao ngu quá vậy, thêm một chân nữa đi". Gian bếp, buồng ngủ, mảnh vườn, mỗi nơi mang theo biết bao là dấu vết của đời sống gia đình. Có căn nhà mình sống với cha mẹ ở đó, có căn là nơi mình đón những đứa con ra đời, có căn là nơi mình khóc tiễn đưa mẹ cha lần cuối. Khi dọn đi làm sao xóa được dấu Di qua cong phia Nam o khu vua thu nhat roi lai qua cong phia Nam o khu vuc thu 2. O khu vuc thu 3, di ra cong phia Dong va ban phao sang len troi. Quay lai vao tim Blue Key trong mot cai ruong. Di ra cong phi bac va tim cay tru mau xanh noi ban dung Blue Key de mo cua. Lai tim Red Key o khu vuc do trong mot cai ruong khac. Day la mot chuong trinh gan giong nhu MS Office, tat nhien la don gianhon, no chay truc tiep tren mang va khong phai cai dat. Neuban co taikhoan Gmail thi con co the luu truc tiep cac file minh vua tao o trenmang luon. + Master Transport CIMO ma anh da hoc nam vua roi la chuong trinh hoptac giua 2 truong Paris 12 va ENPC. La master Vay Tiền Trả Góp 24 Tháng. BuddhaSasana Home Page This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font [03] Ánh nắng siêu thoát Vua Bình Sa Vương Bimbisàra - Tần-Ba-Sa trị vì quốc độ Ma-Kiệt-à Magadha - một đế quốc hùng mạnh, đóng đô tại kinh thành Vương-Xá Ràjagaha - là vị thí chủ đầu tiên của ức Phật trong hàng vua chúa. Khi thái tử Sĩ-ạt-Ta thoát ly đời sống vương giả, trên đường lang thang tìm đạo, có ghé qua Vương-Xá thành. Và một hôm, nhà vua trông thấy Ngài, một đạo sĩ khiêm tốn đang đi khất thực trên đường phố. Vua lấy làm kính cảm khi thấy tướng mạo uy nghi, tư cách trang nghiêm, thanh tịnh của Ngài nên sai người đi dò thăm. Khi được biết rằng, thường bữa, sau khi độ ngọ thì vị đạo sĩ cao quý ấy ngụ tại Pandavapabbata, vua cùng đám tùy tùng đến viếng Ngài và trao đổi chuyện. - Thưa ạo Sĩ! Vua Bình Sa chấp tay cung kỉnh hỏi - Trẫm thấy ạo Sĩ có cốt cách và dung mạo khác thường, chắc hẳn không phải là hạng dân dã mà xuất thân phải thuộc dòng tộc cao quý nhất, hùng mạnh nhất. Trẫm tò mò muốn biết, có khi không phải, mong ạo Sĩ hỷ xả bỏ qua cho. Rằng, lý do làm sao, ạo Sĩ tuổi đang còn thanh xuân, tóc đang còn đen nhánh, lại chấp nhận đời sống nghèo hèn của hạnh khước từ? Hiện tại đời sống ấy ra sao? Và tương lai, cứu cánh ấy như thế nào? ạo Sĩ Cồ-àm trả lời - Chẳng có gì, tâu ại vương! Phía trước đây, không xa lắm, dưới chân Hy mã lạp sơn, trong châu thành Kosala của những gia tộc cổ kính, một bộ tộc cường thịnh và phú túc tôi xuất thân ở đấy, triều đại Thái Dương, dòng dõi Thích Ca Sàkya. Vì nhận thức được mối hiểm nguy, tệ hại của thú vui vật chất nên tôi đã rũ bỏ vương bào, khoác mảnh y hoại sắc của người khất sĩ. Hiện tại tôi không còn muốn bám víu vào ngũ dục, tôi xuất ly chúng và cần cầu cái gì cao thượng hơn. Giờ đây tôi cảm thấy được thoải mái trong đời sống xuất gia. Tôi được an lạc, cảm ơn ại Vương đã quan tâm! Vua Bình Sa nghe vậy rất hoan hỷ, kính thỉnh ạo Sĩ Cồ-àm, sau khi chứng ngộ đạo quả, hãy trở về viếng thăm vương quốc Ma-Kiệt-à. ạo Sĩ Cồ-àm cũng hứa khả với đức vua như vậy. Mấy năm sau, đắc đạo quả Chánh ẳng Chánh Giác, ức Phật từ giã cội Bồ ề bên sông Ni Liên, lên đường chuyển bánh xe Pháp, gióng lên tiếng trống Bất Tử. ầu tiên, Ngài đến vườn Lộc Giả, độ cho năm anh em Kiều Trần Như - là những kẻ cùng tu khổ hạnh năm nào. Tại Ba-la-nại, ức Phật độ cho Yasa và bằng hữu của ông, cả thảy năm lăm người. Cùng với nhóm Kiều Trần Như là sáu mươi vị A-La-Hán, từ đó, Ngài thành lập Giáo Hội Tăng Già đầu tiên, gồm những người thuộc giai cấp lãnh đạo, có học thức, cao sang nhất trong xã hội thời bấy giờ. ức Phật quyết định gởi sáu mươi vị A-La-Hán di khắp các nơi truyền bá Giáo Pháp mới mẻ này. Ngài nói với các đệ tử - Nầy các thầy tỳ-khưu! Như Lai đã thoát ra khỏi mọi sự trói buộc, dầu ở cảnh người hay ở cảnh trời. Các con cũng vậy, hỡi các thầy tỳ-khưu! Các con cũng đã thoát khỏi mọi sự trói buộc, dầu ở cảnh người hay ở cảnh trời. Hãy ra đi! Nầy các thầy tỳ-khưu! em lại sự tốt đẹp cho nhiều người, đem lại sự hạnh phúc cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem lại lợi ích, an lạc cho chư thiên và loài người. Mỗi người hãy đi mỗi ngã. Hãy hoằng dương Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối; toàn hảo trong cả hai tinh thần và ngôn ngữ. Hãy công bố đời sống thiêng liêng và cao thượng, vừa toàn thiện, vừa trong sạch. Có chúng sanh vướng ít bụi cát ở trong mắt sẽ am hiểu Giáo Pháp, hiện quán Giáo Pháp và thân chứng Giáo Pháp. Có chúng sanh dẫu ít bụi cát ở trong mắt, nhưng nếu không nghe được Giáo Pháp, liễu tri Giáo Pháp, chúng sẽ sa đọa. Các thầy hãy ra đi vì lòng bi mẫn, vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh đang khổ nạn; đang bị bít bùng, đoanh vây bởi phiền não chướng, sở tri chướng. Chính Như Lai cũng phải ra đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Sanànigàma. Như Lai sẽ đi qua vùng Chư-Thiên-ọa-Xứ Isipatana, đến Vương-Xá thành hoằng dương Giáo Pháp, cứu độ cho nhiều người hữu duyên. Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy gióng lên tiếng trống của Chân Phúc và Bất Tử. Hãy truyền dạy Giáo Pháp giản dị, thiết thực và cao siêu chưa từng được nghe. Hãy mang lại niềm hy vọng an bình cho nhân thế. ược vậy là các thầy đã làm xong việc phải làm trên đời này! Sau khi ức Phật tuyên bố như vậy, sáu mươi vị thánh A-La-Hán chia nhau đi các phương. ức Phật ghé vùng Chư-Thiên-ọa-Xứ, độ cho ba mươi người xuất gia theo phạm hạnh. Ngài đến vùng Uruvela độ cho anh em ông Ca-Diếp cùng một ngàn đệ tử của họ. Trong một bài thuyết pháp về lửa ở Gàya Ngài đã độ cho không biết bao nhiêu người đắc quả, trong đó ba anh em ông Ca-Diếp đắc quả A-La-Hán. Khi Ngài đến Vương-Xá thành, ở trong rừng kè thì chung quanh đã có hơn một ngàn thầy tỳ-khưu. ức Phật trở lại đây, kinh đô nước Ma-Kiệt-à là thể theo lời thỉnh cầu trước đây của Bình Sa Vương. Tin lành đến tai vua, vì danh tiếng của vị giáo chủ vô song này đã bay khắp vương quốc, chấn động cả kinh đô tín ngưỡng, rung động những con tim tôn giáo. ức vua bèn hối hả cùng tùy tùng và thân quyến đến đảnh lễ và thăm viếng ạo Sĩ năm xưa. Một vùng hào quang xán lạn và yên tĩnh từ kim thân ức Phật tỏa ra, vua Bình Sa cúi đầu rồi thành kính chiêm ngưỡng, và biết chắc, đây là một bậc ại Giác Ngộ đích thực đã ra đời. Sau thời pháp, ánh sáng chân lý đến với mọi người. Bình Sa Vương đắc quả Tu-à-Hườn, xin quy y Tam Bảo; sau đó, ức vua xin thỉnh ức Phật và Tăng Chúng về cung điện thọ trai ngày hôm sau. Trong dịp này, Bình Sa Vương xin làm bổn phận của một đệ tử cư sĩ, ngõ ý cúng dường khu Trúc Lâm của mình - là nơi không xa cũng không gần thành phố - để cho Chư Tăng dễ dàng hành đạo; và để cho những ai, có thể đến thính pháp rất tiện lợi. ây là khu rừng tre mát mẻ, ban ngày không ồn ào, ban đêm yên tĩnh, kín đáo mà khoảng khoát, trong lành. Trúc Lâm còn được gọi là nơi trú ẩn của loài sóc, tại đây, ức Phật đợi chờ cho nhân duyên chín muồi để độ cho hai nhân cách siêu việt, hai vị đại đệ tử, hai ngôi sao của Giáo Hội. Ấy là Upatissa Xá-Lợi-Phất và Kolita Mục-Kiền-Liên vậy. * * * Khi ức Thê Tôn đang ở Trúc Lâm thì ại ức Assaji, một trong năm vị đệ tử A-La-Hán đầu tiên thuộc nhóm Kiều Trần Như, theo lời dạy của ức Phật, lên đường chuyển bánh xe Pháp, cùng đi về một phương với ức Phật, theo hướng Vương-Xá thành. Nhân duyên của Upatissa đã đến. Hôm đó, chàng cũng ở tại Vương-Xá thành, đang trên đường đi thăm đạo sĩ Sanjaya, thì chợt nhiên nhìn thấy một tu sĩ y bát trang nghiêm, dung nghi từ tốn; mắt nhìn xuống, tĩnh lặng, khiêm hòa; gương mặt trầm tĩnh, buông xả và tự tại. Tất cả đấy biểu lộ một sự vắng lặng, an tịnh, ổn định sâu xa ở bên trong; nó còn nói lên một sự dừng lặng, ngưng nghỉ, tĩnh tại - cái không còn xôn xao, lăng xăng tìm kiếm! Vị ại ức khả kính nọ khoan thai, chừng mực đi từ nhà này sang nhà khác, nhận lãnh ít vật thực khiêm tốn từ tấm lòng của mọi người. Cốt cách siêu phàm và bình dị của bậc chân tu khiến Upatissa tò mò để ý. Chưa bao giờ chàng được gặp một Bà la môn, Sa môn, một đạo sĩ, một tu sĩ, một nhân cách, một con người bình thường và vĩ đại như vậy. Chắc chắn Ngài là một trong những vị đã đắc quả A-La-Hán lý tưởng phổ thông thời bấy giờ hay ít ra là một trong những vị đang đi trên con đường dẫn đến đạo quả A-La-Hán. Upatissa tự nhủ "- Ta hãy đến gần và hỏi Ngài Vì sao Ngài thoát ly thế tục? Thầy của Ngài là ai? Ngài truyền bá giáo lý gì?" Tuy nhiên, thấy ại ức Assaji đang yên lặng đi trì bình, Upatissa không dám làm rộn Ngài. Khi ại ức Assaji đi bát xong, hướng mắt đến một khu rừng xa cất bước, Upatissa cung kính đi theo sau, tự nghĩ "- Chắc chắn Ngài đang tìm đến một nơi an tịnh phải lẽ để độ thực. Ta sẽ đi theo Ngài, tìm cách hầu hạ Ngài như một người đệ tử. Rồi ta sẽ hỏi đạo từ nơi Ngài." ại ức Assaji biết có người đi theo sau, nghĩ rằng "- Mấy ông du sĩ ngoại đạo này thường cống cao, ngã mạn. Chúng không biết rằng, khi ức Thế Tôn xuất hiện ở trên đời thì tất cả các giáo phái chủ, giáo phái sư của chúng chỉ còn là những ngọn đèn le lói, những con đom đóm lập lòe! Thế mà chúng cứ muốn đem so ánh sáng của mình với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng! Tuy thế, ta cứ để cho chúng muốn làm gì thì làm với cái lập lòe, le lói ấy! Không ai có thể phá rối được sự an tĩnh của những đệ tử ức Tôn Sư - dẫu là uy lực của Chư Thiên, Phạm Thiên, ma quân hay loài người!" ến một lùm cây cao, có bóng mát, ại ức Assaji đưa mắt nhìn bao quát một vòng rồi dừng chân lại. Upatissa hiểu ý Ngài đã tìm ra được chỗ nghỉ, nên nhanh nhẹn lấy chiếc tọa cụ của mình mang theo, trải ra trên đám cỏ bằng phẳng, sạch sẽ rồi thưa rằng - Bạch Ngài, xin Ngài hãy an tọa trên tấm tọa cụ này. Xin Ngài hoan hỷ tiếp thọ tấm lòng thành kính của con. ại ức Assaji gật đầu đáp trả, mỉm cười bình lặng, ngồi xuống rồi mang bình bát ra, để bên chân rồi thong thả độ thực. Ngài dùng chậm rãi, từ tốn, an trú chánh niệm trước mặt, rốt ráo hiện quán, rốt ráo tỉnh thức. Upatissa đứng một bên, vòng tay cung kính, nét mặt trang nghiêm, bình lặng. Một ý nghĩ khởi sanh trong tâm Ngài Assaji "- Người này, vị du sĩ trẻ tuổi này; tuấn mỹ, trang nghiêm và rất mực cung kỉnh này - biểu lộ một sự chân thực hiếm có! Ta chưa từng thấy ai, biết ai trong hàng ngoại đạo lại toát ra cái vẻ tri thức đích thực, đạo hạnh và khiêm tốn hy hữu như vậy. Phải chăng, đây sẽ là một đóa kỳ hoa khi được ánh nắng siêu thoát của ức Tôn Sư dọi đến?" ại ức Assaji vừa rời tay khỏi bình bát sau khi thọ thực xong, Upatissa đã nhanh nhẹn và cẩn trọng dâng đến Ngài nước rửa, nước uống, tăm xỉa răng mà những du sĩ hành cước luôn luôn mang sẵn bên mình. ại ức Assaji im lặng thọ nhận, tự nghĩ "- Không phải không duyên cớ mà y đến bên ta, cung kính và hầu hạ ta với tư cách một người đệ tử thuần hậu, ngoan ngoãn. Ta hãy tìm một chỗ phải lẽ để nghỉ ngơi, sau đó, thì giờ ta sẽ dành cho thiền định, an trú tâm giải thoát rồi ta sẽ xem thái độ của y ra sao." ại ức Assaji đứng đậy. Upatissa nhanh chóng thu dọn, cất đặt mọi thứ rồi thưa rằng - Bạch Ngài! Chẳng hay Ngài có ý định tìm một gốc cây khác, một khu rừng khác để tỉnh chỉ vào buổi trưa? ệ tử xin được đi theo hầu hạ, có việc gì xin Ngài cứ tùy nghi sai bảo. ại ức Assaji đáp - Bần đạo đã hoan hỷ thọ nhận tất cả mỹ ý của ngài rồi, vị du sĩ trẻ tuổi ạ! Nay đến thời tỉnh chỉ của bần đạo, khỏi phiền đến ngài nữa. Không rõ bần đạo có thể giúp ích được gì cho ngài đây? Upatissa thỉnh ại ức Assaji ngồi xuống trở lại trên tấm tọa cụ của mình, cung kỉnh đảnh lễ sát đất, ôm chân bụi của Ngài rồi bạch - ệ tử lang thang tìm ạo đã nhiều. ệ tử đã lê gót ta bà khổ hạnh khắp mọi quốc độ, nghe nơi nào có vị đạo sư lỗi lạc đệ tử đều tìm đến chiêm ngưỡng, cúng dường, học hỏi giáo pháp. ệ tử ở trong truyền thống Bà la môn đã học hết kinh điển Bà la môn, tu tập hết mọi con đường dẫn đến Phạm Thể, nhưng cuối cùng vẫn bế tắc và khổ đau. Bao năm nay đệ tử khẳng khái phất tay từ bỏ chúng, bước ra ngoài chúng; đã học hỏi với rất nhiều giáo phái, rất nhiều chân sư hiện đại nhưng Chân Phúc và Bất Tử vẫn không tìm thấy! Bạch Ngài, vị Sa môn khả kính! ệ tử chưa từng thấy ai có được ngũ quan trong sáng, bình thản và an tịnh như Ngài. Phong thái của Ngài mới tươi mát, tịch tịnh và siêu thoát làm sao! Bạch Ngài! Con chiêm ngưỡng Ngài như thế rồi tự nghĩ "ây đúng là nhân cách của bậc vĩ nhân A-La-Hán hay ít ra là cũng đang trên đường đi đến đạo quả A-La-Hán". Vậy xin Ngài hãy dạy cho con biết, vì mục đích nào mà Ngài thoát ly thế tục? Có ai làm Tôn Sư của Ngài trên đời này không? Ngài thọ giáo với ai? Và Giáo Pháp Ngài thọ giáo ấy nó như thế nào? Vị A-La-Hán chăm chú lắng nghe, tự nghĩ "- úng là y đã nói tận đáy lòng. úng là một du sĩ có học thức, có lễ độ, có hạnh kiểm. úng là y đã từng nỗ lực cần cầu sự an ổn, vượt thoát mọi khổ ách ở trên đời." Ngài bèn khiêm tốn trả lời - thái độ khiêm tốn, chừng mực là đặc điểm của bậc Thánh nhân. - Này vị du sĩ trẻ tuổi chân thật! Bần đạo chỉ là một tu sĩ sơ cơ. Bần đạo chỉ mới tập tành bước chân vào Giáo Pháp này. Bần đạo ít học, ít ngôn ngữ, ít khả năng nên thật không đủ sức giảng giải Giáo Pháp một cách rành rẽ được. Upatissa thành kính nói - Kính bạch Ngài! Con là Upatissa, xin Ngài cứ chỉ giáo cho con ít nhiều. Dẫu chỉ một ít nhưng con sẽ cố gắng tự tìm hiểu Giáo Pháp bằng trăm ngàn cách. Và chàng lại đảnh lễ một lần nữa - Con là người khao khát Giáo Pháp như hạn hán trông mưa, nhất là thứ Giáo Pháp mà Ngài đã uống vào lòng rồi tỏa sáng, chói ngời nơi tứ oai nghi, nơi cung cách và nơi tác phong của Ngài. Xin Ngài hãy ban cho con một ít về Giáo Pháp ấy. Ngài chỉ cần một vài lời tóm tắt. Dẫu một vài lời nhưng là cái căn bản, cốt lõi và thiết yếu nhất. Biết lòng khẩn, thiết tha của chàng thanh niên, ại ức Assaji nói - Vậy này hỡi người du sĩ đáng mến! Bần đạo sẽ tóm tắt gọn ghẽ triết lý cao siêu của ấng Tôn Sư. Hãy lắng tai để nghe, hãy lấy trí để thấy "Các Pháp phát sanh do bởi một nhân, Nhân ấy, ức Như Lai đã chỉ rõ. Và Ngài cũng dạy phương pháp để, diệt tắt nhân ấy. Chính đó là giáo huấn của vị ại Sa môn!" Bốn câu kệ tóm tắt toàn bộ Giáo Pháp thật giản dị mà cũng vô cùng cao siêu. Trí tuệ của Upatissa lúc bấy giờ có lẽ đã thuần thục để thấu triệt chân lý ấy. Như một ánh nắng, một tia sáng... Chỉ cần một gợi ý, một mở phơi... là Upatissa thấy hé lộ một con đường đi đến Chân Phúc và Bất tử! Còn kỳ diệu hơn thế nữa, là không đợi đến lúc ại ức Assaji đọc xong bốn câu, mà chỉ mới hai câu đầu tiên thôi - Upatissa đã chứng quả Tu-à-Huờn Sotapati, đã đi vào dòng Thánh. Upatissa đứng lặng hồi lâu, toàn thân chàng chấn động mạnh một trạng thái siêu thoát đã đến với tâm trí chàng! Xúc động, cảm kích, tri ân bàng hoàng lẫn lộn - Upatissa quỳ xuống ôm chân ại ức Assaji, nghĩ rằng " Ý nghĩa của sự giải thoát, Chân Phúc và Bất Tử ta đã tìm thấy ở đây rồi." Bèn nói - Bạch Ngài! ệ tử đã tìm thấy rồi. Thật là siêu thoát và vĩ đại là Giáo Pháp vô thượng này. Xin Ngài đừng giải rộng thêm nữa. ối với đệ tử, vậy là quá đủ rồi, quá đủ cho mục đích của một thiện gia nam tử xuất ly cần cầu an ổn mọi ách phược trên trần thế. ại ức Assaji biết vị du sĩ trẻ tuổi đã đắc pháp nhãn, đã thấy ánh-sáng-của-con-đường, bèn tiếp - Hãy đi đến bên chân ức Tôn Sư, Bậc Vô Thượng Chánh ẳng Chánh Giác - Ngài còn có cả một kho tàng Pháp Bảo, chỉ để dành cho những ai có trí. - Bạch Ngài! Hiện ấng Vô Thượng Giác giờ ở đâu? - Này kẻ tầm ạo! Cũng gần đây thôi. ức Tôn Sư hiện đang ở rừng Tre, chỗ trú ẩn của loài sóc. - Bạch Ngài! Rồi đệ tử sẽ đến đó. Hiện giờ, đệ tử có một người bạn thân, cũng cần cầu Giáo Pháp như đệ tử vậy, trước khi chia tay, có lời hẹn ước như sau "Nếu ai tìm được ạo Bất Tử trước tiên, phải chỉ lại cho người kia." Nay đệ tử phải thông báo cho bạn niềm vui bất tử này. ất hôm nữa thôi, chúng đệ tử sẽ đến quỳ bên chân ức Giáo Chủ vô song. Upatissa cung kính quỳ mọp đảnh lễ Ngài Assaji, từ giã, sau đó, đi tìm Kolita. Thấy bạn với dáng đi, với nét mặt tỏa sáng rạng rỡ kỳ lạ chưa từng được thấy, Kolita ngạc nhiên hỏi - Này hiền huynh! Phải chăng hôm nay hiền huynh đã tìm ra ạo Bất Tử? -Phải, hiền đệ ạ! Thật là hạnh phúc thay cho chúng ta, cho tất cả chúng sanh, vì ạo Bất Tử đã thật sự có mặt trên đời này. Một ức Thế Tôn, một nhân cách vô song, một bậc A-La-Hán vĩ đại - đã tuyên bố một Giáo Pháp vô song và vĩ đại chưa từng được nghe! Huynh đã nếm được hương vị đầu tiên của Giáo Pháp ấy qua đệ tử của ức Vô Thượng ấy. Bây giờ, hiền đệ hãy lắng tai để nghe, lấy trí để thấy... đây là bốn câu kệ tóm tắt Giáo Pháp bất diệt ấy... Nói thế xong, Upatissa đọc lên. Khi bốn câu kệ ngôn vừa chấm dứt, cũng như Upatissa, Kolita chấn động cả châu thân, ánh sáng Bất Tử lóe hiện Kolita nhập vào giòng Thánh, đắc quả Tu-à-Huờn. Cũng im lặng giây lâu, cũng bàng hoàng xúc động như Upatissa, Kolita chấp tay cung kính - Quả thật là Giáo Pháp tối thượng, vĩ đại đã xuất hiện ở trên đời do một ấng ại Giác - vì lợi ích cho chúng sanh. Con xin cung kính đảnh lễ Giáo Pháp ấy. Con xin cung kính tri ân Giáo Pháp, đã cho con thấy bến, thấy bờ, thấy được ánh sáng vinh quang và bất tử. Kolita run run nắm tay bạn - Này hiền huynh! Vậy ức Thế Tôn giờ ở đâu? - Thầy của huynh cho biết rằng, ấng ại Giác hiện ở Trúc Lâm, tức là rừng Tre của vua Bình Sa. - Chúng ta hãy mau mau đến chiêm bái Ngài. Upatissa suy nghĩ một lát - Vâng, rồi chúng ta sẽ đến chiêm ngưỡng Ngài, sẽ quy y với ấng ại Giác ấy. Nhưng hiền đệ nghĩ như thế nào, có nên thông báo sự kiện hy hữu này cho thầy cũ của chúng ta, đạo sĩ Sanjaya hay biết chăng? Có nên thức tỉnh thầy của chúng ta từ bỏ mớ giáo lý hời hợt, nông cạn, ởm ờ đánh lận con đen bằng cái triết học "bất khả tri", với cái cõi "bình an hằng cửu" giả tạo ấy hay không? Khi mặt trời chân lý đã có mặt - thì tất cả ngọn đèn của các triết thuyết trên thế gian sẽ không còn rọi sáng cho ai được nữa! Kolita gật đầu - Phải lắm! Tất cả các con suối, con sông cuối cùng phải đổ vào con sông ại Hằng, cùng thế ấy, hãy thuyết phục thầy cũ của chúng ta đi theo ánh đạo Quang Vinh Bất Tử. Người thầy cũ Trên đường đến tu viện của đạo sĩ Sanjaya, đôi bạn thấy thấp thoáng khá nhiều tu sĩ áo vàng. Ngạc nhiên làm sao, họ mới chú tâm để ý. Cũng là áo vàng, cũng là màu hoại sắc, nhưng trông những tu sĩ này hoàn toàn khác xa với những tu sĩ khác nhan nhãn khắp nhiều quốc độ. Trông họ có vẻ gọn gàng, sạch sẽ và tươm tất làm sao! Những vị này đều đồng loạt cạo bỏ râu tóc; và cách đi đứng, phong thái, nét mặt của họ đều toát ra vẻ an nhiên, tĩnh lặng - thật khác xa với những tu sĩ ngoại đạo, lúc nào cũng nhuốm vẻ âu sầu, vàng võ, hốc hác, đăm chiêu, lơ đễnh, hời hợt, hấp tấp, kỳ bí, tóc tai rối bù, kỳ hình dị dạng, diêm dúa, dơ bẩn Chỉ chừng ấy thôi, đôi bạn đã xác tín được đâu là thiện mỹ! Giáo Pháp ấy có một uy lực, một năng lực cảm hóa con người và cuộc đời. Giáo Pháp ấy không ru ngủ, huyễn hoặc con người trong lời kinh tiếng kệ trầm buồn chỉ có tác dụng của liều thuốc an thần và hứa hẹn những thiên đường cực lạc xa xăm. Giáo Pháp ấy đã lôi dục vọng con người từ bỏ lý tưởng đại ngã, chân ngã rỗng tuếch, phù phiếm trở về trực diện với hiện tại bằng sự tỉnh thức, chánh niệm nơi mỗi bước đi, hơi thở. Họ đấy, những đệ tử của ức Vô Thượng, có lẽ là bạn của thầy ta, đang chậm rãi, thong dong, hiện quán trong từng cử chỉ, từng tâm niệm. Và rõ ràng, an lạc, hạnh phúc như tỏa sáng dịu dàng trên từng khuôn mặt, phơi phới, tươi đẹp làm sao! Ôi! Giáo Pháp và Giáo Hội của ức Tôn Sư, quả thật, đã thổi một luồng sinh khí, mới mẻ, trẻ trung, trang nghiêm và trong lành - xua tan hương khói âm u của đền miếu, hang động, bùa chú, phù phép... đã tù đọng ngầy ngật mấy ngàn năm trong sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của đất nước này. Và còn hơn thế nữa, đã lôi được tinh thần con người ra khỏi những triết lý một chiều, phiến diện; đám sương mù chia chẻ của lý luận; những học thuyết xa rời thực tế cuộc sống; những cầu nguyện cuồng tín về những thế giới "bất khả tri"! - Vậy thì chúng ta phải cương quyết lôi kéo thầy của chúng ta từ bỏ nơi mê lộ mà tìm về với chánh đạo. - úng thế! Upatissa đáp lời Kolita - một tín ngưỡng trong sáng và lành mạnh, một Giáo Pháp trong sáng và lành mạnh, một Giáo hội trong sáng và lành mạnh của những tu sĩ trong sáng và lành mạnh đang có mặt ở thế gian này - dĩ nhiên là phải để dành cho những căn cơ thượng trí! Thầy của chúng ta lẽ nào không có tai để nghe, không có mắt để thấy, không có trí để tìm hiểu? Gặp lại hai người học trò ưu tú, đạo sĩ Sanjaya rất mừng vui. Sau một hồi đưa đẩy xã giao, Sanjaya hối thúc đôi bạn kể cho nghe những việc xảy ra trên bước đường lang thang tìm đạo bấy nay. Ông hy vọng là họ đã trở về lại với ông nên tỏ ra thông cảm sâu sắc - Ta hiểu lắm! Cuộc lang thang tầm đạo dĩ nhiên là nhiêu khê, vất vả lắm! i một ngày đàng, học một sàng khôn - thế gian còn bảo thế, huống chi đây là tháng ngày đi tìm chân lý. Vậy trí khôn của các người giờ như thế nào? Có vị chân sư, giáo chủ nào bước qua được thế giới "bất khả tri" của ta chăng? Không trả lời câu hỏi của đạo sĩ Sanjaya vội, Upatissa chậm rãi thuật lại một cách tóm tắt công việc tầm đạo của hai chàng cho đạo sĩ Sanjaya nghe. Upatissa thừa khôn khéo để nói rằng, quả thật đi khắp mọi phương trời cũng không tìm đâu ra một chân lý siêu việt, cuối cùng, mệt mỏi, bất lực - hai chàng trở lại Vương-Xá thành... Mới nghe nói đến đây, Sanjaya cười ha hả, cướp lời - ấy! Ta nói có sai đâu! Tất cả triết gia, giáo phái chủ, giáo phái sư trên đời này... đều là những con đom đóm, sao sánh được ngọn đèn minh triết của ta? Upatissa đoán biết là sẽ có câu nói ấy từ cửa miệng của đạo sĩ Sanjaya, nên chàng gật đầu - Bạch thầy! Thầy đã nói đúng! Quả thật tất cả giáo phái chủ, giáo phái sư trên đời này chỉ là ánh sáng đom đóm và giáo pháp của thầy là ngọn đèn... ạo sĩ Sanjaya gật đầu hoan hỷ - Các ngươi biết thế là hay! Biết thế là hay! Kolita nhẹ nhàng nói - Nhưng mà thầy ạ! Chúng đệ tử vừa gặp một Giáo Pháp, mà Giáo Pháp ấy lại sáng rỡ như mặt trời mặt trăng kia! - Cái gì? Cái gì? Các ngươi vừa nói cái gì? Sanjaya nhổm dậy, đã mất hẳn bình tĩnh. Upatissa bèn kể lại, rằng, ngày hôm qua, tại đây, tại Vương-Xá thành này, chàng đã gặp được đệ tử của ức Thế Tôn ra sao, cả hai chàng đều thấy rõ ràng Giáo Pháp ấy tỏa sáng tự trời cao, soi rọi mọi ngõ ngách tối tăm của phiền não và sở tri, đã thật sự đem đến an lạc tối thượng cho con người như thế nào... Rồi Upatissa thỉnh nguyện - Bạch Thầy! Vì trọng thầy, mến thầy, và để đáp đền ơn nghĩa cũ - chúng đệ tử tha thiết mong thầy từ bỏ giáo pháp này, cùng đi với chúng đệ tử đến quy y với ức Tôn Sư Vô Thượng. Nghe xong, đạo sĩ Sanjaya ngạc nhiên la lên - Cái gì? Các ngươi nói cái gì vậy? ến làm đệ tử ông Thế Tôn ấy; người có Giáo Pháp vĩ đại như mặt trời, mặt trăng? Xem nào, các ngươi có lầm lẫn không đấy! Ta đây đã là tôn sư của nhiều người - bây giờ theo ý các ngươi là phải từ bỏ tất cả, đừng làm tôn sư nữa, mà hãy đi làm đệ tử? Có xuẩn ngốc không chứ? Sanjaya giận dữ, phất y đứng dậy, cất giọng rổn rảng - ừng có thuyết phục ta những việc vô lý như thế! Danh dự và địa vị của ta không thể trong một lúc mà đem thả trôi sông. Ta đã nhất tâm khổ hạnh tu chứng, đạt được thiền định bậc cao. Ta lại cố công giáo huấn môn đồ, gầy dựng cơ sở vật chất, tổ chức đời sống tu học cho người xuất gia và tại gia. Tất cả đều thịnh mãn, trù phú và tốt đẹp. Thành quả này không dễ gì một sớm một chiều mà có được, không dễ gì ai cũng làm được. Phải đầy đủ trí tuệ, dõng lực, bản lãnh, nghị lực, phước báu cùng từ bi tâm. áng lý ra, các ngươi là hai đệ tử ưu tú của ta, phải ở bên ta, tiếp sức với ta, làm cho danh dự, tiếng tăm và địa vị của ta mỗi ngày mỗi to lớn, lan rộng, lan xa ra mới phải. Danh dự, tiếng tăm và địa vị của ta cũng là của các ngươi. Ở bên ta, ta có cái gì là các ngươi có cái ấy... thử hỏi các ngươi còn đòi hỏi cái gì nữa mới được chứ? Upatissa và Kolita thất vọng vô cùng. Trước đây, Sanjaya bao giờ cũng có vẻ trầm tĩnh, độ lượng, nghị luận sắc bén; thường chứng tỏ một nội lực, một sức học thâm sâu. Bây giờ, ông đã lộ trần truồng bản chất một con người nóng nảy, cạn cợt, ham danh, ham lợi một cách quá thô thiển. Sanjaya vẫn không dừng lại ở đó - Hả? Tại sao các ngươi lại im lặng? Trên đời này, có ai dại khờ đánh đổi một thành quả to lớn như vậy để chỉ lấy cái bát xin ăn, làm một đệ tử với hai bàn tay trắng, không tiếng tăm, không danh vọng? Upatissa và Kolita vẫn im lặng. Bất đồ, Sanjaya nắm bình hoa trên bàn ném xuống đất vỡ toang những mảnh sành nhỏ va nhau loảng xoảng. Ông chậm rãi cúi xuống, lựa chọn, rồi cầm lên tay một mảnh nhỏ, nhìn hai người, cất tiếng - Nói đi, nói đi! Theo ý các ngươi thì mảnh sành này hứng được bao nhiêu giọt nước? Vì nể thầy Kolita đáp - Ít thôi, chỉ vài giọt là cùng. - So với chiếc bình to chưa vỡ kia? - Bạch thầy, chẳng thể đo lường được! ắc ý, Sanjaya cười to lên - Thấy chưa! Tự các ngươi nói đấy! Các ngươi muốn ta tự đập vỡ cái bình to của mình ra, để nhận lại cái mảnh sành chút xíu mà đựng nước! Chỉ có kẻ ngu mới làm vậy phải không? Trí tuệ Upatissa chợt máy động. Dùng lý luận của đối phương để đập vỡ lý luận của đối phương là chuyện mà chàng thường làm. Nếu muốn, chàng chưa bao giờ hạ phong trước một ai cả. Ở đây, tuy nhiên, không phải là vậy, chàng chỉ muốn sử dụng sự sắc sảo của lý luận để thức tỉnh đạo sĩ Sanjaya mà thôi. Cho nên, để từ từ đưa Sanjaya vào lưới bủa của chính ông ta, chàng hỏi - Bạch thầy! Có thể nào, cùng một câu chuyện cái bình và mảnh sành mà đệ tử lại hiểu một cách khác không? - Làm sao lại khác được! - Ví như đệ tử hiểu ngược lại rằng cái bình kia nếu thầy khẳng khái đánh vỡ thì tốt đẹp cho thầy biết bao! - Làm gì có chuyện đó! Cái chuyện bình vỡ mà tốt đẹp là điều lạ thật đấy, đáng phục thật đấy! Kolita chăm chú lắng nghe, không hiểu được trí tuệ của vị sư huynh mình sẽ dẫn câu chuyện đến đâu! Một trực giác xẹt đến. Ồ! Chàng đã hiểu. Bất giác chàng mỉm cười. Upatissa thấy Sanjaya đã rơi vào tròng; nghiêm trang và cứng rắn, chàng cất giọng trầm hùng, đanh thép, không khoan nhượng - Bạch thầy! Theo giáo lý truyền thống Bà la môn thì mỗi chúng sanh là một tiểu ngã. Gọi là tiểu ngã nhưng trải qua bao kiếp luân hồi, từ vô thủy đến nay, nó tích lũy không biết bao nhiêu là ác nghiệp, hận thù, oan trái; nó thu góp không biết bao nhiêu là tham muốn xấu xa, độc ác. Thế mà đã đủ đâu, cái tiểu ngã ấy chất chứa vô lượng dục vọng rồi mà nó vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa thỏa mãn - nó còn muốn phồng cho to lên bằng đại ngã kia! Thưa thầy! Dục vọng trong mỗi chúng sanh chính là những cái bình chứa ấy. Cái bình chứa ấy ở nơi thầy, hiện giờ nó đựng được nhiều thứ lắm. Nó đựng đầy trong lòng nó nào là kiêu căng, ngã mạn, tối tăm, tham vọng cùng sân si giận dữ! Ngoài ra, cái bình tiểu ngã rất to của thầy còn có công năng diệu dụng khác; có thể cắm lên đấy những cành hoa lộng lẫy, diêm dúa như trương lên những bảng hiệu quảng cáo mạ bạc thếp vàng lóng la lóng lánh hoa này là vì giáo phái, hoa này là vì đệ tử, hoa này là vì lợi lạc cho quần sanh, hoa này là vì chân lý tối thượng, hoa này là vì xả kỷ vị tha Ôi! May mắn làm sao! áng mừng làm sao! Cái bình to ấy, hôm nay, thầy của chúng ta đã đập vỡ đi rồi! Sanjaya nín lặng, nghẹn họng, tự nghĩ "- Chúng đã dùng lý luận khôn khéo để bẻ gãy lý luận của ta dễ dàng như thò tay lấy đồ vật ở trong túi. Chúng đã dùng chính cái gậy của ta để đập lên cái sọ của ta, thế nhưng, ta đã không đở nổi. Chúng đã dùng chính cái lưới của ta để bủa vây ta, thế nhưng ta đã không thoát ra khỏi." Upatissa bắn tiếp mũi tên thứ hai - Bạch thầy! Chúng đệ tử không nghĩ rằng, danh vọng, tiếng tăm, địa vị,... cho chí lâu đài, vương tước, bảy báu, gia sản vật chất đầy dẫy Châu Diêm Phù ề... lại quý trọng đến vậy. Khi đã đập vỡ cái bình rồi, thầy sẽ thấy như thế. Chỉ có một vương quốc thật sự đáng quý trọng, đó là những lời Pháp chơn chánh. Chỉ có một vương quốc thật sự đáng ngưỡng mộ, hướng về - đó là ánh sáng của ạo Bất Tử! Bạch thầy! Giáo Pháp của ức Tôn Sư, Bậc ại Giác đã thuyết có công năng đập vỡ những chiếc bình bản ngã to lớn, đoạn hoặc vô minh và phiền não cho chúng sanh, bẻ gãy bánh xe sinh tử và trầm luân vạn kiếp. Sau rốt, nó lại có công năng đem lại chân phúc, trí tuệ siêu đẳng và đức từ ái phi phàm. Giáo Pháp chỉ để dành cho những ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có trí để tự mình giác hiểu. Giáo Pháp như nụ đàm hoa, hằng vạn năm mới nở một lần; nó có mùi hương vi diệu tỏa ngát trên trần thế, đem lại sự mát mẻ, trong lành cho chúng sanh giữa cõi nhiễm ô, tục khí. Vậy thì bạch thầy! Những gia tài sinh diệt, những hoạch đắc thống khổ mê lầm của bản ngã kia làm sao lại dám đem so sánh với ánh sáng Giáo Pháp của ạo Bất Tử? Nếu thầy biết nghe theo lời của chúng đệ tử - thì nên bỏ cái nhỏ mà tìm về cái lớn, phất tay cái hữu hạn mà nắm lấy cái vô cùng, xa lìa cái hạnh phúc phù du để chụp bắt cái an lạc như chân như thật, tung hê cái buộc ràng sinh tử để di vào chân trời giải thoát và tự do. Bạch thầy! ấy là điều đáng làm. Và thầy nên làm như vậy, bởi thầy là bậc trí trên đời này. ạo sĩ Sanjaya bị thuyết phục một hồi, đâm ra lúng túng, tự nghĩ "- Họ hiểu biết nhiều quá. Họ rào trước, đón sau chằng chịt, ta không có một kẽ hở nào để đặt chân vào đấy mà tranh luận. Tuy nhiên, ta không thể đứng vào vị thế bị bao vây, nhu nhược, yếu hèn, phải cất lên tiếng rống của con mãnh sư." Bèn hét - Thật là lý luận rỡm, khua môi múa mép! Thôi! Ta tha thứ cho đó! Các ngươi hãy đi đi! i đâu thì đi! Hãy đi cho khuất mắt ta! Upatissa hiểu tâm sự lẫn bản ngã của thầy, nên cố nhẫn nại - Thầy cùng đi với chúng đệ tử chứ? ạo sĩ Sanjaya la gắt lên - Sao nói gì kỳ lạ vậy? Làm sao ta lại phải đi! - Sao lại không đi được hở thầy? Upatissa cương quyết không bỏ cuộc - nếu thầy thấy quan điểm của đệ tử là đúng, thầy phải chấp nhận nó, và đi theo đệ tử; nếu thầy thấy quan điểm của đệ tử là sai, thầy hãy bác bỏ nó, và đệ tử sẽ ở lại bên thầy. Dứt khoát là vậy. Chẳng hay, quan điểm của đệ tử đúng hay sai? ạo sĩ Sanjaya như bị đẩy đến đường cùng, im lặng một lát rồi thở dài nói - Các ngươi không sai điểm nào cả. ến lượt Kolita ngạc nhiên - Không sai, nhưng thầy vẫn không theo? Nó đúng, nhưng thầy vẫn không chấp nhận? - Phải! - Tại sao? Kolita vặn hỏi - Một việc phải mà thầy vẫn không theo? Thế ra, thầy vẫn khư khư sống với cái sai của mình? ạo sĩ Sanjaya nghe nản quá, tự nghĩ "- ối với những kẻ trí tuệ, chân thực và đầy nhiệt huyết này, nếu như không được trả lời một cách rõ ràng, dứt khoát, chúng sẽ căn vặn cho đến tận cùng, ta sẽ không còn chỗ nào mà lách, mà trốn được nữa. Ta đã mệt quá rồi, thôi, thà rằng cứ nói thật một lần cho xong." Bèn nói "- ất đã không chịu trời thì trời xin chịu đất vậy!" Các ngươi hãy nghe đây! Các ngươi đều là kẻ có trí tuệ, có thể hơn cả ta, lại là người chân thật nữa. iều mà các ngươi bảo rằng đúng, Giáo Pháp mà các ngươi cho là Vô Thượng, Chân Phúc và Bất Tử - thì hẳn nhiên ta không một mảy may dám nghi ngờ. Nhưng đây mới là sự thật ta muốn nói - giọng Sanjaya đến đây như chùng hẳn xuống - ta thật sự đã già rồi, không thể thay đổi những thói quen đã ăn sâu quá lâu; ta thật sự chỉ quen làm đạo sư thiên hạ, không thể thay đổi thành đời sống của một đệ tử được nữa! Rồi ông nói to lên - Các ngươi nghe rõ rồi đấy chứ! Thôi, hãy đi đi! Hãy để cho ta được yên! Nghe lời thành thật, Upatissa cảm thấy thương xót cho vị thầy già, biết là không có cách chi thuyết phục được nữa, vẫn vớt một câu cuối cùng - Khi ức Thế Tôn xuất hiện ở trên đời, thì đấy là phúc duyên ngàn vạn năm ít có, thầy mà không theo về, thầy sẽ hối hận . ạo sĩ Sanjaya nói nhỏ, như chỉ vừa đủ cho tự mình nghe - Phải rồi! úng là vậy thật. úng là phúc duyên, là đại duyên thật. ấng ại Giác kia là Tôn Sư mà ta đây cũng là Tôn Sư. Nhưng bao giờ, trên trời nầy, kẻ ngu muội cũng nhiều hơn, mà kẻ có trí thì ít lắm. - Ý thầy nói gì, chúng đệ tử chưa nghe rõ? Sanjaya lại la lên - Ta đã nói quá rõ rồi đấy chứ! Ta đã nói rằng, xin cho tất cả những kẻ khôn ngoan, có trí thì hãy đến với ức Thế Tôn, ấng ại Giác của các ngươi! Còn những kẻ ngu si, dốt nát, ngu muội thì hãy đến với ta! Ha ha ha! Xem thử ai nhiều hơn! Hà hà! Xem thử đệ tử ức Tôn Sư của các ngươi và đệ tử của ta, ai đông hơn! Hà hà! Nói vậy là hết sách vở. Upatissa và Kolita bèn xá lễ, cáo từ. - Vậy chúng đệ tử xin bái biệt. Rồi thầy sẽ hối hận. - Ta, Sanjaya, đầu đội trời, chân đạp đất, không bao giờ hối hận! Mặc dầu nói cứng vậy, nhưng khi Upatissa và Kolita đi rồi, ông thẩn thờ dạo quanh tu viện, thấy tất cả đều vắng tanh, trống trải, ông vô cùng cáu giận. Bây giờ ông mới hiểu sự thật ảnh hưởng tinh thần của Upatissa và Kolita quá lớn trong đám môn đồ của ông; và khi hai người ra đi, không những mang theo hai trăm năm mươi đồ chúng của họ trước đây mà còn lôi cuốn tất cả đồ chúng của ông nữa. Càng nghĩ, Sanjaya càng buồn nản, tức bực; ông uất đến hộc máu tươi. Tuy nhiên, điều mà chẳng ai ngờ đến là ông không mảy may oán hận Upatissa và Kolita, không mảy may oán hận đám môn đồ bất nghĩa, mà ông hận chính ông vậy. Ôi! cao cả thay mà cũng bi đát thay! Xế chiều, hai trăm rưỡi đệ tử của Sanjaya không đành lòng bỏ thầy tuổi già cô độc một mình, họ bèn trở lại. Upatissa và Kolita cũng cám cảnh, khuyến khích họ trở về, rồi cùng với môn đệ nhắm hướng Trúc Lâm lên đường. Hai vị đại đệ tử Sau khi ức Phật nhận lời khu rừng Tre của vua Bình Sa dâng cúng; Ngài cùng với môn đệ bộ hành đến tận nơi chiêm quan thắng cảnh Trúc Lâm nổi tiếng. ức Phật đứng trên đồi cao nhìn lướt qua một vòng. Kia là những dãy núi xanh xanh bao quanh, nọ là những con suối trắng xóa vắt ngang, vắt dọc như giải lụa. Từng đám cây xanh đậm nhạt ẩn trong nhau, xen kẽ nhau; điểm giữa là những vùng lá vàng, lá đỏ đậm sắc, nổi bật như bức tranh vẽ của con người. ến gần hơn, đi luồng vào trong rừng, thì trúc không phải là loài cây duy nhất. Cả một rừng nhiệt đới phô bày dáng cây, dáng lá, màu vỏ cây, màu hoa phong phú trông thật ngoạn mục. Những con đường không biết tự bao đời ẩn hiện thấp thoáng, bò men bờ suối, chìm khuất đâu đó lại tiếp nối dưới chân đồi xa... Suối chảy róc rách, uốn lượn đó đây, tạo thành vũng, thành hồ rồi bình yên lặng lẽ đi qua đám cỏ lục xanh rì... Chim đua hót vang rân. Nai hồn nhiên gặm cỏ. Thỏ sợ hãi nhảy vút qua nấp trong bụi rậm ... Và ô kìa! Thiên hô vạn hát là sóc! Sóc tía, sóc đen, sóc vàng, sóc nâu, sóc rằn ri, sóc ngũ sắc... với những cái đuôi phồng lên, với những đôi mắt tho lỏ, rụt rè... nhìn ức Phật và Tăng chúng đi qua. Ngồi lại trên một phiến thạch bàn, ức Thế Tôn nói với môn đệ - Này các thầy tỳ-khưu! Giáo Pháp của Như Lai vừa xuất hiện ở trên đời như một luồng gió mới, như tiếng sấm gióng lên trong trời mưa, nhưng đã từ lâu lắm rồi, giáo lý truyền thống Bà la môn đã bưng tai, bịt mắt mọi người trong phúng tụng, đàn tế và cầu nguyện nên không dễ gì ai cũng nghe được Pháp Mầu Bất Tử. Những tu sĩ Bà la môn đã kết hợp với nhau thành một giai cấp đầy thế lực, nắm giữ độc quyền liên hệ với thần linh; nắm giữ độc quyền đám ma, nghi lễ, cúng tế; thao túng mọi sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng; đã dìm con người trong mọi thứ buộc ràng, nô lệ nên thật khó xiển dương một Giáo Pháp tôn trọng tự do, giải thoát cho con người. Này các thầy tỳ-khưu! Những cây cối, chim chóc, nai, thỏ, sóc, trong khu rừng Trúc Lâm này quả thật là trù phú và thạnh mậu. ất, nước, không khí trong lành này đã nuôi dưỡng nó, đã làm cho nó được tự do phát triển và lớn mạnh. Cũng vậy, muốn đem đến an vui và hạnh phúc cho chúng sanh thì Giáo Pháp phải có nơi làm cơ sở! Giáo Pháp ấy phải có đất, nước, không khí trong lành làm nhân, làm duyên hỗ trợ để nuôi nó lớn lên, nuôi nó trưởng thành vậy. Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai tuyên bố rằng mảnh đất nầy là cơ sở đầu tiên ấy. Tại đây, Như Lai sẽ đợi chờ nhân duyên cho Giáo Pháp được trọn vẹn, toàn hảo. Một Giáo Pháp được gọi là trọn vẹn, toàn hảo không phải chỉ có một mình Như Lai và hơn một ngàn thầy tỳ-khưu như vậy. Lời tuyên bố của ức Phật, hôm ấy, Chư Tăng không hiểu hết ý nghĩa. Qua ngày hôm sau, vua Bình Sa, thân quyến và tùy tùng tìm đến vấn an, đảnh lễ dưới chân ức Phật rồi ngõ ý thỉnh ức Thế Tôn và Tăng chúng an cư mùa mưa ở đây. ức Phật im lặng nhận lời. Vua Bình Sa hoan hỷ phát tâm làm công đức, như bổn phận của vị Thánh đệ tử, xin được kiến thiết, xây dựng toàn bộ Trúc Lâm để ức Phật và Tăng chúng có chỗ để an cư. Một vị quan đại thần lão niên, bên cạnh vua Bình Sa kính cẩn thốt lên - Bạch ức Thế Tôn! ệ tử là quan coi về thiên văn, địa lý, phong thủy. Từ lâu, đệ tử biết rằng, đây là mảnh đất có khí tượng siêu phàm, phi ức Thế Tôn và Tăng chúng - không ai ở được. Ở đây, núi long, núi hổ, thiên tinh, đế tinh, kim tinh... tất cả đều chầu về, qui phục. Giáo Pháp của ức Tôn Sư, lấy đây làm căn cứ địa, thì Phạm Thiên, Chư Thiên, Ma vương, Dạ-Xoa, La-Sát, Vua loài người, giáo phái chủ, giáo phái sư, khắp nơi trong toàn cõi Châu Diêm Phù ề... phải qui chầu hết thảy! Lành thay! ệ tử cung kỉnh chúc mừng Giáo Pháp Vô Thượng. Chư Tăng có vị mỉm cười, có vị gật đầu lặng lẽ. Vua Bình Sa hỷ lạc dâng lên bừng bừng, quát yêu người bề tôi trung tín - Thôi vừa rồi, thôi đủ rồi! ức Thế Tôn và Tăng chúng bác học, đa văn còn biết nhiều hơn - hơn cả vô lượng cái đầu óc nhỏ nhoi , bé tí của tất cả ông thầy địa lý như ngươi cọng lại! ừng có bép xép, múa môi cái tài phong thủy không đáng nửa đồng xu! Mau mau cùng với đám thuộc hạ đi đo đạc, thiết kế... chọn chỗ thích đáng để xây dựng tịnh xá cho ức Thế Tôn! Rồi nơi nào là nhà giảng, nhà hội, trai phòng, tịnh phòng, liêu thất, nhà tắm, nhà vệ sinh, rừng hoa, rừng cảnh, đường kinh hành, rừng cây thiền duyệt... mỗi mỗi phải hoàn bị, đầy đủ, tươm tất, tiện nghi, khang trang, thoáng mát, ấm cúng, trang nhã! Nhưng hãy lưu ý đây có nghệ thuật nhưng nghệ thuật ấy phải giản dị, có công phu nhưng công phu ấy không được rườm rà, quá tỉ mỉ. Tinh thần chỉ đạo của toàn bộ nghệ thuật kiến trúc ở đây là phải mới mẻ, không được lặp lại, bắt chước từ nghệ thuật truyền thống, cũng không được lai căng! Cao hơn nữa, đây là tài sáng tạo của các ngươi tinh thần nghệ thuật ấy phải toát ra được sự êm đềm, tĩnh lặng, thanh thoát, giải thoát và cao nhã... như chính Giáo Pháp, như là đời sống Thánh hạnh của ức Thế Tôn và Tăng chúng vậy. Và hãy nghe cho kỹ đây tất cả công trình xây dựng ấy phải hoàn thành trong vòng hai tháng, trước mùa mưa! Nếu không xong, Trẫm sẽ lột mũ, gõ đầu, đuổi về quê mà làm nghề kiến trúc và địa lý! Quả thật là kiến thức của một ông vua tài trí và hùng mạnh, lại là một bậc Thánh đệ tử có bụng dạ nhân từ; nên lệnh ban ra, vị kiến trúc sư kiêm nhà thiên văn, địa lý kia hoàn toàn vâng phục chấp y, chẳng dám đưa ra được nửa lời góp ý. * * * Trúc Lâm tịnh xá đúng là căn cứ địa đầu tiên của Phật Giáo, là nơi tiền trạm, để từ đó, phát triển Giáo Pháp khắp các quốc độ. ức Phật nhận lời an cư ba mùa mưa ở đây, ngoài ra còn cố ý chờ đợi... hai người! Có hai người này như cánh tay phải, cánh tay trái của Ngài, bánh xe Pháp mới được chuyển luân xa rộng và viên mãn. Hôm ấy ức Thế Tôn đang ngồi trên bảo tọa, tam chúng * đoanh vây, thời Pháp chấm dứt, Ngài nói với mọi người - Này các thầy tỳ-khưu! Này hai hàng cận sự nam nữ! Như Lai đến Ma-Kiệt-à không những chỉ có nhân duyên với vua Bình Sa, là một hộ pháp đắc lực khuông phò Giáo Hội, mà còn có ý chờ đợi một nhân duyên khác nữa. Vậy thì hôm nay, ở đây, Như Lai sẽ tiếp nhận thêm hai đóa hoa kỳ tuyệt, hai ngôi sao sáng, hai nhân cách ưu tú nhất của Giáo Pháp. Nhân duyên ấy đã chín muồi, đã tròn đủ. Các ngươi hãy nhìn xem! Hai thanh niên đạo sĩ Upatissa và Kolita cùng hai trăm năm mươi đồ chúng đang đến trước cửa của khu rừng. [Ghi chú * tam chúng lúc ấy chưa có tỳ-khưu ni] Quả nhiên, khi ức Thế Tôn vừa nói xong, Upatissa và Kolita đã vào đến tịnh xá Trúc Lâm, theo sau là môn đệ bước đi thứ tự, trang nghiêm, lặng lẽ. Cả hai cung kính đến đảnh lễ dưới chân ức ạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Các đệ tử đi sau cũng làm như thế, và ngồi rải rác khắp đó đây. Upatissa và Kolita đồng thưa - Bạch ức Thế Tôn! Chúng đệ tử lang thang đã lâu nay mới về được quê nhà. Xin ức Thế Tôn cho chúng đệ tử thụ giáo, quy y Tam Bảo, ở trong hàng Tăng chúng để cùng được hạnh phúc đi trên con đường Chánh Giáo. ức Phật đáp - Nầy các thầy tỳ-khưu! Etha Bhikkhave! Hãy lại đây, tỳ-khưu!. Như Lai cũng đang đợi chờ các ngươi. Khi Pháp Bảo đã thấy rồi, thì đời sống còn lại của một Sa môn Thánh đệ tử là những tháng ngày thiêng liêng và đạo hạnh trong sạch để lợi ích cho mình, cho Chư Thiên và loài người. Khi ức Thế Tôn vừa gọi "Etha Bhikkhave!" thì Upatissa và Kolita đã đầy đủ y bát, tướng hảo quang minh, đúng phong độ là hai bậc thượng thủ của Giáo Hội, và sau khi ức Thế Tôn nói vài lời tóm tắt, ngắn gọn về Con ường, cả hai liền nắm vững căn bản Pháp Bảo, tâm trí thông suốt. Lại một lần nữa, cả hai quỳ bên chân ức ạo sư với vô vàn sự tri ân cao cả. Từ đây Upatissa được gọi tên là Xá-Lợi-Phất Sàriputta và Kolita được gọi tên là ại Mục-Kiền-Liên Mahà Moggallàna. * * * Ngay vào buổi chiều hôm đó, ức Phật cho gọi Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên đến bên rồi bảo - Trúc Lâm tịnh xá cho đến hôm nay đã rất đông tỳ-khưu và cũng đã rất nhiều người đắc được quả cao nhất, như vậy, Giáo Hội tạm thời vững mạnh. Nói tạm thời vững mạnh vì Như Lai vẫn chưa có được người trợ thủ khả dĩ thay mặt Như Lai để lo Phật sự, Tăng sự cùng thuyết pháp, giáo giới đến chư tỳ-khưu cùng các hàng cận sự nam nữ! Hiểu ý ức Phật, cả hai cùng quỳ xuống. ại Mục-Kiền-Liên thưa - Xin ức Thế Tôn cho đệ tử đến ngụ cư nơi một ngôi làng vắng vẻ, tịch mịch, cũng gần đây thôi. ệ tử biết là phải làm gì cho tròn bổn phận. ức Phật im lặng nhận lời rồi nói với Xá-Lợi-Phất - Còn ông, hãy cùng đi với Như Lai đến một chỗ khuất tịch nhất. Cũng như ại Mục-Kiền-Liên vậy, ông cũng còn một phận sự phải làm và phải hoàn thành. Cả hai ông phải đặt bàn chân cuối cùng lên mảnh đất Bất Tử. ấy cũng là ước nguyện của Như Lai! ức Phật lại nói với ại Mục-Kiền-Liên - Ông cương quyết hành trì cho đắc đạo quả A-La-Hán, điều ấy là phải lẽ, là xứng đáng , là việc đầu tiên cần phải làm. Tuy nhiên, sẽ có những trở ngại trên lộ trình ấy. Khi nào khó khăn nhất, cơ hồ không vượt qua nổi, lúc ấy Như Lai sẽ có mặt ở một bên. Dặn dò thế xong, ức Phật dẫn Ngài Xá-Lợi-Phất ra đi. Ngài bộ hành đến một hang động tịch liêu tên là Sakarakhatalena - tức là ộng Heo, và thường ngày cùng với ức Xá-Lợi-Phất vào Vương-Xá thành để khất thực. Có phải ức Phật muốn chỉ dạy riêng về những điểm thâm sâu, tế nhị cho Bậc Tướng Quân Chánh Pháp trong tương lai chăng? ại Mục-Kiền-Liên sau khi từ giã ức ạo Sư và Xá-Lợi-Phất, Ngài đến ngụ tại ngôi làng Kallavàta, cách Vương-Xá thành không bao xa. Ngày ngày ngoài việc khất thực, hầu hết thì giờ Ngài để dành cho thiền định, tuệ quán, là phận sự duy nhất còn lại. úng một tuần sau, lười biếng, hôn trầm và dễ duôi đồng loạt kéo đến, Ngài phải ra sức kiên trì để chống chỏi. ức Phật biết rõ tình trạng nầy, đã xuất hiện kịp thời để dẫn giải cho ại Mục-Kiền-Liên các tầng bậc của thiền định, những pháp che lấp cần phải vượt qua, phải chiến thắng. Tuy nhiên, thế vẫn chưa đủ, còn có những cảm thọ vi tế của hỷ và lạc, của xả, của thuần tĩnh nhất tâm, của không, của thức, của tưởng... Tất cả đấy lại phải dùng đến tuệ quán để thấy rõ. Tuyệt đối không được an trú một pháp nào và cũng không được bỏ quên một pháp nào. Tất cả đều phải được nhìn ngắm trong suốt, trọn vẹn, trạm nhiên và hư tĩnh. Do nhờ trí tuệ và tinh tấn, không bao lâu sau, chỉ vào buổi chiều ấy thôi, Ngài đã dễ dàng chứng quả cao nhất A-La-Hán quả. ồng thời chứng đạt luôn năm thắng trí, năm thần thông, là pháp của bậc thượng nhân. Từ đây, ại Mục-Kiền-Liên đã đủ điều kiện để làm một vị ại ệ Tử. Còn Ngài Xá-Lợi-Phất thì thường ngày hầu cận ức Tôn Sư mà chẳng được ức Tôn Sư nhắc nhở, khuyến khích gì về đạo quả tối thượng ấy. Trên đường đi khất thực, hoặc những khi ở trong hang động, ức ạo Sư thường lặng lẽ, tỉnh giác, chánh niệm, bao giờ cũng tự tại, định tĩnh như Tu-Di sơn. Thỉnh thoảng, ức Phật nhập đại định rất sâu, khí an tĩnh và hào quang tỏa sáng, dịu một vùng. Thế đấy, Ngài dường như đang thuyết pháp vô ngôn, hiện tiền, giản dị và sống động nhất. Năm bảy lần gì đó, ức Phật có nói chuyện, nhưng nói về những điều không cao siêu gì lắm! - Nầy Xá-Lợi-Phất! Giáo Pháp mà Như Lai thuyết, Giáo Pháp ấy gốc nó ở đâu? - Bạch ức Thế Tôn! Nó ở Tâm! - Nói gần hơn một chút. - Nơi hơi thở! - Gần hơn nữa! - Sát-na Tâm! ức Phật chẳng nói những kiến giải đó đúng hay sai, Ngài chỉ im lặng và dường như Ngài có mỉm cười rất nhẹ, thế thôi. Một lần khác, trên đường khất thực trở về, ức Phật nghỉ chân dưới cội cây, nhìn ra xa với cây cảnh, đồi núi, suối khe... trước mặt, Ngài nói - Này Xá-Lợi-Phất! Hãy hướng tầm mắt ra ngoài xa kia, nơi vạn vật đang dàn trải ra đó - ở đấy có Giáo Pháp không? - Vâng, có bạch ức Thế Tôn. - Nó là gốc hay là ngọn? - Chưa thấy thì nó là ngọn, thấy rồi nó cũng không khác gốc! - Thấy rồi, gốc ngọn ấy nó giống nhau ư? Nó hòa làm một ư? - Cái nào ra cái ấy, cái nào tính chất ấy! Cũng như lần trước, ức Phật lại im lặng, bước đi. Chốc sau, Ngài lại hỏi - Này Xá-Lợi-Phất! Bước chân của Như Lai đi có Giáo Pháp, vậy bước nhảy của con chim trên tảng đá kia có Giáo Pháp không? - Bạch, có ạ! - Có vì con chim tự biết ư? - Không! Bạch ức Thế Tôn! Có, khi chính đệ tử nhìn bước nhảy ấy. - Vậy Giáo Pháp của ngươi thấy ấy với Giáo Pháp của Như Lai thuyết - cũng là một ư? - Bạch, nó không hai! Bây giờ ức Phật mới quay lại nhìn Xá-Lợi-Phất, mỉm cười nhẹ - Ông có biết không? Trong nhiều kiếp quá khứ, Như Lai đã từng chất vấn ông, và ông cũng đã từng chất vấn Như Lai. Nhưng nay thì Như Lai chỉ chất vấn ông, mà ông lại không chất vấn Như Lai! - Bạch ức Thế Tôn! ệ tử còn tối tăm, ngu muội; quá khứ đã bị che lấp, đệ tử không hiểu gì. Mong ức Thế Tôn đại bi giáo hóa! Im lặng giây lát, ức Phật nói - Hãy kham nhẫn, này Xá-Lợi-Phất! Ông là người có trí, chỉ cần vài nét đại cương là ông sẽ hiểu ra toàn bộ. Nhưng nay chưa phải thời. Hãy kham nhẫn! Vậy là đúng một tuần sau khi ại Mục-Kiền-Liên chứng ngộ, chợt nhiên ức Phật nói với Xá-Lợi-Phất - Hôm nay, ông có một người cháu, đã lớn tuổi, vượt đường xa đến thăm ông - y là một du sĩ ngoại đạo! - Bạch ức Thế Tôn! Có lẽ đấy là đạo sĩ Dìghanakha chăng? - Nghe nói y học vấn uyên thâm, luận bác, tranh biện vào hàng trứ danh trong ngoại đạo? - Bạch, quả đệ tử có nghe như vậy! Nhưng trước đây, lúc tranh luận với y, may mắn là đệ tử chưa từng thua cuộc! Nói đến đây, Xá-Lợi-Phất quỳ xuống ôm chân ức ạo Sư - Bạch ức Thế Tôn! Y cũng là người có trí, chỉ còn rất ít bụi cát trong mắt thôi. Xin ức Thế Tôn vì bi mẫn, thuyết cho y nghe một thời Pháp về ạo Bất Tử! ức Phật im lặng nhận lời. Quả nhiên, không lâu sau, một đạo sĩ du phưong tìm đến, ân cần thăm hỏi ức Xá-Lợi-Phất một cách chân tình, lễ độ. Thấy tướng hảo quang minh, cùng nét mặt bình an, thanh thoát của ức Xá-Lợi-Phất, đạo sĩ Dìghanakha đâm ra tò mò -Thưa chú! Trước đây chú khác mà bây giờ chú khác. Trước đây mỗi lần chú cháu ta tranh luận với nhau, nơi vầng trán cao của chú dường như cau lại, nơi đôi mắt sắc bén, đầy khí lực của chú dường như có gợn một thoáng mờ như hơi sương! Bây giờ thì không vậy, nó sáng rỡ, mênh mông, và tỏa hào quang nữa! ức Xá-Lợi-Phất mỉm cười, nhìn người cháu lớn tuổi, học thức cao rộng mà tính khí hồn nhiên, cởi mở và chân thực, lòng Ngài tràn đầy thương mến. ạo sĩ Dìghanakha đi lui đi tới, hít thở, lắng nghe rồi nói - Thật là kỳ lạ! Không phải chỉ ở nơi chú, mà xung quanh đây cũng vậy, dường như toát ra sự bình an, mát mẽ và thanh khiết. Cái ấy không chỉ cảm nhận mà còn sờ được, ngửi được, nghe được! Tại sao kỳ lạ vậy chứ! ức Xá-Lợi-Phất tự nghĩ "Cái ấy có được - có lẽ nhờ năng lực của ức Tôn Sư!" Chợt nhiên đạo sĩ Dìghanakha quay lại - Thưa chú! Chẳng hay chú đang sống trong một Giáo Pháp như thế nào mà sớm được thành tựu pháp mầu như vậy? ức Xá-Lợi-Phất ân cần nắm tay đạo sĩ - Này cháu! Khi ức Tôn Sư đã có mặt trên đời, nhất là khi ấng Vô Thượng lại đang ở đây; thì cho dầu ít lời, ít chữ, ít câu của Ngài thôi cũng sẽ đem đến cho cháu Niềm Vui Bất Tử! Ta là gì mà dám nói Pháp Bảo trước ức Tôn Sư! ức Phật xuất hiện từ cửa động phía sau bước lại. Dìghanakha nhìn sững. Tất cả từ nơi Ngài toát ra, cho dù vua của đỉnh Hy mã lạp sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp. Dìghanakha cung kỉnh đảnh lễ dưới chân ức Thế Tôn. Sau đó ức Phật thuyết kinh Vedanà Parigaha - tức là bài kinh nói về các trạng thái của Tâm cho đạo sĩ Dìghanakha nghe. Xong thời Pháp, đạo sĩ đắc quả Tu-à-Hườn. ức Xá-Lợi-Phất hầu sau lưng ức Phật, nhờ để tâm chuyên chú vào thời Pháp nên đắc quả A-La-Hán với bốn Tuệ Phân Tích. Như vậy, với sự thành tựu tri thức tối thượng, tuệ tối thượng, ức Xá-Lợi-Phất từ đây cũng đã đầy đủ điều kiện để làm một ại ệ Tử nữa. Biết người đệ tử của mình đã làm xong xuôi bổn phận cuối cùng - cũng như ại Mục-Kiền-Liên đã xong xuôi quả vị cách đây một tuần lễ, ức Phật, ngay lúc ấy, chợt đứng lên - Này Xá-Lợi-Phất! Bây giờ hãy cùng Như Lai lên đường trở về Trúc Lâm tịnh xá. Chúng ta còn nhiều việc phải làm! ến đây thì ức Xá-Lợi-Phất chợt hiểu "úng là cái thấy biết vi diệu của Bậc Toàn Tri Diệu Giác. Là phàm nhân, cho dầu một vị Thánh A-La-Hán cao nhất cũng khó hiểu được những diễn biến, những ý nghĩ, những tri kiến, những dự định trong tâm của một vị Phật. Té ra, ức Thế Tôn đột ngột rời Trúc Lâm tịnh xá đến hang động này cũng chỉ để thành tựu cho mình quả vị cuối cùng. Té ra, ức Thế Tôn chỉ nói vắn gọn vài lời gợi ý cho ại Mục-Kiền-Liên cũng là để thành tựu cho ại Mục-Kiền-Liên quả vị A-La-Hán nơi ngôi làng tịch mịch , thanh vắng nọ. Quả thật, các vị Phật xuất hiện ở đời, một biểu hiện nhỏ của các Ngài, qua thân, qua khẩu, qua ý, bao giờ cũng toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ; lúc nào cũng lợi lạc cho quần sanh." Ngay chiều hôm đó, tại Trúc Lâm tịnh xá, ức Thế Tôn bố cáo một cuộc họp rộng rãi, đầy đủ hơn một ngàn thầy tỳ-khưu cùng những cư sĩ tại gia, rồi Ngài nói rằng - Trước đầy đủ Chư Tăng, đầy đủ hai hàng cư sĩ áo trắng, Như Lai muốn tuyên bố một tin quan trọng cho Giáo Pháp, để từ đó Giáo Pháp mới có thể phát triển vững mạnh, lan xa nhiều quốc độ là từ đây, Như Lai đã có hai vị ại ệ Tử, là Trưởng tử của Như Lai , là con được sinh ra từ miệng của Như Lai - đó là Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên. Xá-Lợi-Phất là ệ Nhất ại ệ Tử, Mục-Kiền-Liên là ệ Nhị ại ệ Tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như Lai , được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi lĩnh vực thuộc về Phật sự hay Tăng sự. Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên quả thật xứng đáng là Thượng Thủ của Giáo Hội. Như Lai trân trọng tuyên bố như vậy. ức Phật vừa nói xong, đại chúng xôn xao bàn tán. Có nhiều tranh luận nho nhỏ đã xảy ra. Người ta không hiểu tại sao ức Thế Tôn không dành danh dự tối cao này cho các vị tỳ-khưu Trưởng lão, cao hạ như nhóm năm Ngài Kiều Trần Như, như nhóm Ngài Yasa? Hoặc như nhóm ba mươi vị tỳ-khưu ở Chư-Thiên-ọa-Xứ? Thảng hoặc là nhóm ba anh em Ngài Ca-Diếp, có cả ngàn đồ chúng, tuổi cao, đức trọng - có thể là xứng đáng nhất bước vào hàng thượng thủ của Giáo Hội? Còn ức Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên - mặc dầu được ức Thế Tôn tuyên bố là "con của Như Lai", tức là đã chứng quả A-La-Hán - nhưng họ đều là người trẻ tuổi, lại chỉ gia nhập Giáo Hội vừa đúng nửa tháng! Vậy có thể nào, ức Thế Tôn, bậc Vô Thượng Chánh ẳng Chánh Giác lại có tâm thiên vị? ức Phật hướng tâm đến, biết tâm của đại chúng, Ngài nói rằng - Này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị. Như Lai làm như vậy là hoàn toàn do sự thấy, sự biết của Như Lai . Hãy nghe đây, các thầy tỳ-khưu! Quả thật năm ông Kiều Trần Như tuổi tác cao trọng, là những bậc trí thức, trí tuệ, hạ lạp cao nhất, rất xứng đáng vào hàng thượng thủ. Tuy nhiên, ở một kiếp trước, khi họ bố thí vật thực chín lần trong mùa gặt, họ không có nguyện vọng trở thành đại đệ tử. Họ chỉ phát nguyện bước vào Giáo Pháp của Như Lai đầu tiên và chứng được phẩm hạnh cao nhất. Giờ đây họ đã mãn nguyện. iều đó có đúng sự thật không, hỡi nhóm ông Kiều Trần Như? Nhóm các Ngài Kiều Trần Như đồng bước ra, quỳ xuống đảnh lễ dưới chân ức Phật, bạch rằng - Quả đúng như vậy, Bạch ức Tôn Sư! Phẩm hạnh cao nhất và đầu tiên chính là phát nguyện của chúng đệ tử. ức Phật im lặng một lát rồi tiếp - Còn rất nhiều vị A-La-Hán khác xứng đáng vào hàng thượng thủ nữa, như nhóm ông Yasa, nhóm các ông ở Chư-Thiên-ọa-Xứ, nhóm các ông Ca-Diếp. Nhưng họ cũng vậy, trong họ, không ai đã từng phát nguyện làm đại đệ tử cả, có phải thế không? Dường như có một số vị Thánh im lặng nhắm mắt, hướng tâm về quá khứ, sau đó, Ngài Ca-Diếp, thay mặt mọi người, bạch - Quả đúng như vậy! Thưa ức Tôn Sư! Khi việc quá khứ không còn bị che lấp bởi sự tiết lộ của chư Thánh Tăng, nhất là sự xác nhận của Ngài Ca-Diếp, bậc đạo cao đức trọng, đại chúng đều hoan hỷ. ức Phật lại tiếp - Còn hai ông Xá-Lợi-Phất và ại Mục-Kiền-Liên, trong vô lượng quá khứ, vào thời ức Phật Anomadassi, họ sinh ra làm một người Bà la môn có tên là Sàrada, và một người làm điền chủ có tên là Sirivaddhaka - nguyện vọng của họ là trở thành đại đệ tử khi gặp ức Phật trong kiếp cuối cùng. Vậy này các thầy tỳ-khưu! Như Lai không hề thiên vị! Như Lai vì thấy, vì biết, nguyện vọng của mỗi người - nên bây giờ, chỉ trả lại phẩm vị cho họ, đúng với nguyện vọng của họ mà thôi! ại chúng thở phào, nhẹ nhõm. Một ức Thế Tôn, một Bậc Chánh ẳng Chánh Giác khi tuyên bố một lời nào là đều có nhân, có quả, đều vì lý do chánh đáng, đều vì lợi ích lâu dài, hạnh phúc cho nhiều người. Từ đây, ức Xá-Lợi-Phất và ức ại Mục-Kiền-Liên nhận lãnh vai trò và trách nhiệm mới trong việc phục vụ Giáo Hội, làm ại ệ Tử đã được ức Tôn Sư tấn phong với tất cả uy tín và danh dự cao trọng trước đại chúng môn đồ. -ooOoo- ầu trang 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 Mục lục Chân thành cám ơn ại đức Giác ồng đã gửi tặng phiên bản vi tính Bình Anson, 07-2001 Mot ngoi sao bang vua roi qua day..Sao rot xuong tren vai anh..Nguoi ta khuyen nhau, gap sao bang roi..Thi can dieu chi hay uoc..Mot ngoi sao bang vua roi qua day..Anh da uoc anh gap em..Nguoi ta dau hay, rang bao nam qua..Ngan lan anh thay sao bang..Roi anh uoc, va anh uoc..Nguoi ra di se quay tro ve..Nhung sao vi sao em khong ve day..Va anh biet, rang dieu uoc..Cua sao bang khong co dau..Bao sao bang roi cung nhu vay thoi..Ngay hom ay em da noi..Hay uoc mot dieu luc sao bang vua roi..Va anh nho cung da uoc..Uoc suot cuoc doi, chi co em ma thoi..Ngay hom ay anh da khoc..Luc biet duoc rang trai tim em doi thay..Va anh cu the moi toi..Ngong len bau troi nhin anh sao buon cho ai..Mot ngoi sao bang vua roi qua day..Sao rot xuong tren vai anh..Nguoi ta khuyen nhau, gap sao bang roi..Thi can dieu chi hay uoc..Mot ngoi sao bang vua roi qua day..Anh da uoc anh gap em..Nguoi ta dau hay, da bao nam qua..Ngan lan anh thay sao bang..Roi anh uoc, va anh uoc..Nguoi ra di se quay tro ve..Nhung sao vi sao em khong ve day..Va anh biet, rang dieu uoc..Cua sao bang khong co dau..Bao sao bang roi cung nhu vay thoi..Ngay hom ay em da noi..Hay uoc mot dieu luc sao bang vua roi..Va anh nho cung da uoc..Uoc suot cuoc doi, chi co em ma thoi..Ngay hom ay anh da khoc..Luc biet duoc rang trai tim em doi thay..Va anh cu the moi toi..Ngong len bau troi nhin anh sao buon hom ay em da noi..Hay uoc mot dieu luc sao bang vua roi..Va anh nho cung da uoc..Uoc suot cuoc doi,.Chi Co em ma thoi....Ngay hom ay anh da khoc..Luc biet duoc rang,.Trai tim em doi thay....Va anh cu the moi len bau anh sao buon cho hom ay em da uoc mot dieu luc sao bang vua anh nho cung da uoc ben nhau chon sao em van di.... tổng hợp và liệt ra những một ngôi sao băng vừa rơi qua đây dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ ích nhất Bạn đang xem một ngôi sao băng vừa rơi qua đây Băng Khóc – Huyền Thoại & Xuân Hạ [Official MV] – YouTube XEM THÊM Băng Khóc – Ưng Đại Vệ – XEM THÊM Băng Khóc – Huyền Thoại – Zing MP3 XEM THÊM Băng Khóc – Lời Bài Hát Hay XEM THÊM Băng Khóc – Huyền Thoại, Xuân Hạ Nghe Tải Lời Bài Hát XEM THÊM Băng Khóc – Huyền Thoại – Xuân Hạ • Thư viện nhạc XEM THÊM băng khóc Qiu tian bu hui lai – 秋天不回来 – Hợp Âm Việt XEM THÊM âm Sao Băng Khóc – Huyền Thoại Phiên bản 1 – MarvelVietnam XEM THÊM băng khóc – Ưng Đại Vệ – NhacCuaTui XEM THÊM Với những thông tin chia sẻ trên về một ngôi sao băng vừa rơi qua đây trên các trang thông tin chính thống và độ tin cậy cao sẽ giúp các bạn có thêm thông tin hơn . Thêm vào Tải nhạc Chia sẻ Nhạc chờ Báo lỗi Thông tin Vui lòng đăng nhập trước khi thêm vào playlist! Tải Nhạc 128 Kbps Thêm bài hát vào playlist thành công Thêm bài hát này vào danh sách Playlist Bài hát ngoi sao bang co don do ca sĩ Hoang Long thuộc thể loại Nhac Tre. Tìm loi bai hat ngoi sao bang co don - Hoang Long ngay trên Nhaccuatui. Nghe bài hát Ngôi sao băng cô đơn chất lượng cao 320 kbps lossless miễn phí. Ca khúc Ngôi sao băng cô đơn do ca sĩ Hoàng Long thể hiện, thuộc thể loại Nhạc Trẻ. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát ngoi sao bang co don mp3, playlist/album, MV/Video ngoi sao bang co don miễn phí tại Lời bài hát Ngôi sao băng cô đơn Lời đăng bởi Ngoi trong *** anh ngam sao nghe long bao xot xa giot le roi tren khoe mi trong am tham va tinh yeu anh trao den em cho du anh da sai ma tai sao hok the quay lai tu dau nghin trung doi ta xa cach xa, om giot le dang cay gio em vui voi ai nguoi co thau.................. Mot ngoi sao bang bang qua that nhanh tinh anh van hok phai nhoa nguoi yeu oi xin em dung di trai tim con mai van vuong roi ngay mai khi ta roi xa long anh van yeu em nhieu de gio day ben can phong khuya nguoi yeu oi em dang o dau ma sao em hok quay ve day cung anh em hoi............. Va *** nay day anh mo ve em nhin em van dang tuoi cuoi nu hon xua ta trao ve nhau co sao nguoi no voi quen tham cau mong cho em tu day tinh em van vui ben nguoi de gio day co don minh anh va ngoi sao mang theo tinh em cung ben anh qua bao buon vui gio em co nho............... Giay phut ben nhau... Rap vA khi *** tan mot minh anh trong mien man long ai vang len tung giot dau dong le hoen mi co buoc di voi hinh cong muon dai sao bang bao loi hua hom nao tao *** biet nua............ Video MV 0 0545 Ngôi Sao Cô Đơn Jack - J97 0 0432 Chỉ Có Bạn Bè Liveshow Ngôi Sao Bay Đan Trường 0 0445 Thứ Ba Học Trò Đông Nhi, Bạch Công Khanh, Hoàng Long, Baggio, Anh Duy 0 0449 Đêm Của Nỗi Cô Đơn Bằng Cường [10] Với ề-Bà-ạt-a Cái tin vua A-Xà-Thế Ajàtasattu bị ề-Bà-ạt-a xúi giục, âm mưu sát hại vua cha là Bình Sa Vương để chiếm ngôi làm mọi người bàng hoàng, chua xót. Công việc bại lộ, A-Xà-Thế bị bắt quả tang, và người cha đầy lòng nhân ái, bi mẫn ấy vốn là một Thánh đệ tử không đành lòng xử phạt con trai mà lại còn nhường ngôi, vì biết hoàng tử thèm muốn làm vua. Thế nhưng, để trả ơn, người con bèn hạ ngục, bỏ đói cha và vua Bình Sa đã chết một cách thê thảm. Cả Vương-Xá thành đều đau về nỗi đau này. Và Giáo Hội của ức Tôn Sư từ đây lại phát sanh lên một mụt nhọt, do bởi một con người bị lợi danh mù quáng, biến đổi nhân tâm, tham vọng ngông cuồng đấy là ề-Bà-ạt-a! ược vua A-Xà-Thế hậu thuẫn, xây cất cho một tu viện nguy nga đồ sộ, lại hằng ngày cung cấp tứ sự dư dã, ề-Bà-ạt-a khởi tâm muốn lãnh đạo Giáo Hội. Quy tụ xung quanh ông là mấy trăm tỳ-khưu ham muốn lợi dưỡng, khỏi phải đi khất thực, nhàn hạ thảnh thơi, nên lôi cuốn môn đồ ngày càng đông! Số tỳ-khưu này suốt ngày nịnh bợ, tâng bốc ông. Quần chúng không phân định được trắng đen nên họ hết lòng sùng bái. Vậy là danh tiếng ề-Bà-ạt-a có lúc lại vượt trội hơn cả Tôn giả Xá-Lợi-Phất. ề-Bà-ạt-a thấy cơ hội đã đến, hôm kia, ông cùng với đông đảo tùy tùng môn đệ, đến hầu ức Thế Tôn, cất giọng có vẻ cao ngạo - Bạch ức ạo Sư! Lúc này ức ạo Sư niên trưởng đã cao, sức đã yếu, đệ tử thấy ức ạo Sư nên nghỉ ngơi, tịnh dưỡng là phải lẽ. Còn công việc của Giáo Hội, ức ạo Sư hãy để con làm chưởng quản, chăm sóc và lãnh đạo Chư Tăng. ức Phật đã thẳng thừng từ chối - Này ề-Bà-ạt-a! Ông là gì mà đòi chưởng quản Giáo Hội? Ông tưởng rằng Giáo Hội Thánh hạnh này để cho một kẻ liệt tuệ, thiếu tư cách, thiếu phẩm chất như ông lãnh đạo hay sao? Ngay chính Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên, Như Lai thường coi như ngang hàng với Như Lai thế mà Như Lai vẫn chưa giao phó Giáo Hội cho hai ông ấy. Ông hãy đi đi! Từ rày trong Giáo Pháp này không có chỗ cho ông - một kẻ cuồng vọng! Xin làm lãnh đạo không được, lại bị bẽ mặt, ề-Bà-ạt-a tức giận, nguyện trả thù. Khi ề-Bà-ạt-a đi rồi, ức Thế Tôn cho gọi Tôn giả Xá-Lợi-Phất - Ông, Mục-Kiền-Liên cùng với đệ tử, hãy đi khắp thành Vương-Xá công bố về tất cả những hành động xấu xa của ề-Bà-ạt-a. Và xác định cho mọi người hay rằng, ề-Bà-ạt-a đã ở ngoài Giáo Hội; việc làm của ông ta sau này là trách nhiệm của chính ông ta, chứ không còn liên hệ gì đến Tam Bảo! Tôn giả Xá-Lợi-Phất ngại ngần - Trước đây, cũng tại Vương-Xá thành này, đệ tử đã từng đi công bố cho mọi người hay về phẩm hạnh trang nghiêm, trong sạch của ề-Bà-ạt-a rồi. Lẽ nào, hôm nay đệ tử lại tuyên bố ngược lại? - Trước đây, ông công bố như thế có đúng sự thật không? - Thưa, đúng sự thật. - Vậy bây giờ ông đi công bố những điều Như Lai vừa nói, có đúng sự thật không? - Thưa, đúng sự thật. ức Thế Tôn liền phán - Vậy thì các ông hãy đi! ệ tử của Như Lai bao giờ cũng nói đúng sự thật cả! Khi nghe tin ức Phật cho Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên đi công bố trong thành Vương-Xá về những việc làm xấu quấy của mình, ề-Bà-ạt-a tức giận điên cuồng. Lập tức, ông ta bỏ vàng bạc ra mua một số tay cung thiện xạ, rình để ám sát ức Phật. Chuyện bất thành, những tên cung thủ kia đến sám tội với ức Phật rồi xin quy y Tam Bảo. Lần thứ hai, khi ức Thế Tôn đi trên sườn núi Gijjakùta, chính ề-Bà-ạt-a lên đỉnh cao xô một tảng đá to lăn xuống để giết Ngài. Chuyện cũng không thành, các tảng đá va đập vào nhau, chỉ có một mảnh nhỏ gây thương tích nhẹ cho ức Phật và có máu chảy. Lần thứ ba, ông ta cho voi Nàlàgiri uống rượu mạnh đến say, rồi thả ra ngay chỗ ức Phật đang đi. Voi hung tợn, điên cuồng lao đến ức Phật. Tôn giả Ànanda định hy sinh tính mạng nên lật đật đứng chận trước. Nhưng ức Thế Tôn đã cảm hóa voi say bằng tâm từ của Ngài. Những hành động tệ hại kia làm ông dần dần mất hết uy tín và dư luận cực kỳ chống đối lại ông. Chính vua A-Xà-Thế cũng chán nản ông, bỏ rơi ông, không nâng đỡ ông nữa. Mọi ân huệ của vua thế là mất hết. Khi lòng sân độc muốn hại Phật và lòng tham vọng đẩy ông đến chỗ xấu xa như thế thì mọi khả năng thần thông phép lạ của ông cũng tiêu tan luôn! Thế nhưng ông chưa chịu ngừng lại. Với trí thông minh sẵn có, ông quay qua chiêu bài khác. Ông giả vờ đến sám hối ức Phật và xin ức Phật ban hành thêm năm điều cho hàng xuất gia - Thầy tỳ-khưu phải sống trọn đời trong rừng - Thầy tỳ-khưu phải trọn đời khất thực. - Thầy tỳ-khưu phải mặc y bằng vải lượm nơi nghĩa địa vải bó xác tử thi. - Thầy tỳ-khưu trọn đời phải sống chỗ không có mái che. - Thầy tỳ-khưu trọn đời phải ăn ngũ cốc, rau trái, không được dùng các loại thịt! ức Phật thấy rõ dã tâm của ông, nhưng Ngài chỉ nói lên điều đáng nói - Hôm nay mà ông còn đến đây để giả vờ xin những điều như vậy. Ông biết Như Lai sẽ từ chối, và rồi ông sẽ đi rêu rao đây đó rằng, những điều ông xin là cao thượng hơn. Thế là một số tỳ-khưu nhẹ dạ, quần chúng nhẹ dạ lại bị ông mê hoặc nữa. Còn đệ tử của Như Lai thì năm điều kia có người thực hành là tốt mà không thực hành năm điều ấy cũng được. Ông nên nhớ rằng với ăn, mặc, ngủ... bao giờ Như Lai cũng hằng khuyên là "thiểu dục tri túc". án, mặc, ngủ một cách thiểu dục tri túc và phải tu tập một Giáo Pháp như thế nào con người mới trở nên cao thượng! Chiêu bài của ông chỉ có thể lừa dối được người ngu, không bao giờ qua mắt được kẻ có trí đâu! Thôi, ông hãy đi đi. Hôm nay Như Lai đã nói quá nhiều. Quả địa ngục đang chờ đón ông đấy. Hãy ghi nhớ lời ấy, và chỉ cần ghi nhớ một lời ấy mà thôi! ức Phật đã cảnh tỉnh ề-Bà-ạt-a như vậy. Nhưng có chừng năm trăm tỳ-khưu bị ề-Bà-ạt-a dụ dỗ bởi chiêu bài cao thượng đã theo chân ông ta đến núi Xú điểu kên kên ăn thịt để hình thành một giáo đoàn riêng. Sự chia rẽ Tăng già đã đến hồi trầm trọng. Tuy nhiên, ức Thế Tôn lại bảo Xá-Lợi-Phất - Bây giờ là đến phiên ông và Mục-Kiền-Liên. Cả hai ông hãy đi mau, theo chân ề-Bà-ạt-a, đến núi kên kên, thuyết pháp cho năm trăm tỳ-khưu nhẹ dạ. Như Lai biết rằng, khi trở về, năm trăm tỳ-khưu kia sẽ tháp tùng theo hai ông. Và từ đây cho đến cuối đời, ề-Bà-ạt-a không còn làm gì được nữa. Ông ấy sẽ chết trong cô quạnh, đầy ăn năn, hối hận, sầu muộn. Tuy nhiên, khi nhắm mắt, ông ta rất thành thật, muốn yết kiến Như Lai và sám hối với Như Lai. "Con xin thành kính quy y ức Phật" là câu nói cuối cùng của ông ta! Tôn giả Xá-Lợi-Phất khởi tâm từ ái - Bạch ức Thế Tôn! Sau này ề-Bà-ạt-a có khá hơn được không? - Ông ấy bị đất rút, chịu quả báu ở địa ngục rất lâu, nhưng nhờ một thời gian tu hành trong sạch, nghiêm túc, ông ấy sẽ trở thành một vị Phật ộc Giác tên là Atthissara! - Thật kỳ diệu thay, bạch ức Thế Tôn! Và còn kỳ diệu hơn nữa, Tôn giả Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên đến núi Xú điểu khi ề-Bà-ạt-a đang nghỉ ngơi, hai vị đã thuyết pháp đến cho năm trăm thầy tỳ-khưu, sau thời Pháp, cả năm trăm thầy tỳ-khưu đều đắc quả Tu-à-Huờn! Và họ đồng theo chân hai vị Trưởng lão về Trúc Lâm tịnh xá yết kiến ức Thế Tôn. ề-Bà-ạt-a biết ra thì đã muộn, nhìn khung cảnh quạnh quẽ xung quanh, ông ta gục xuống, thổ ra một bụng máu tươi! Không ai phản ông cả mà bởi chính tâm cuồng vọng của ông đã đẩy ông đến tuyệt lộ! Họ lần lượt ra đi Hôm ấy, Tôn giả Xá-Lợi-Phất tự nghĩ "- Càng sống ta càng hiểu tất cả là do nhân duyên có sẵn từ trước. Quả thật, đôi khi không thể miễn cưỡng nếu không đủ nhân duyên. Như trường hợp tỳ-khưu Kolàlika đã một thời vu cáo, mạt sát ta với Mục-Kiền-Liên là "những kẻ sống theo dục vọng thấp hèn". Chính ức Phật giáo giới cũng không được huống hồ gì ta? Sau này, Kolàlika kết bè với ề-Bà-ạt-a để quậy phá Giáo Hội, một lần nữa ức Phật giáo giới cũng không xong. Như vậy, rõ ràng có những kẻ không bao giờ cảm hóa được! Tuy nhiên, bây giờ tỳ-khưu Kolàlika đang bệnh nặng, ta cần phải đến thăm viếng y." Tôn giả Mục-Kiền-Liên đến tìm gặp Tôn giả Xá-Lợi-Phất đưa tin - Hiền huynh! Tôn giả Kiều Trần Như đã xin phép ức Thế Tôn, nhập diệt rồi! - Thế ư? Tôn giả ấy nhập diệt ở đâu? - Thưa, ở hồ Chaddanta trên Hy mã lạp sơn. Cả hai ngồi đăm chiêu. - Rồi đến lúc chúng ta cũng an nghỉ thôi. Nhưng bây giờ chúng ta hãy đi thăm tỳ-khưu Kolàlika. - Thưa vâng, chúng ta nên như thế lắm. Ông ấy đi đâu cũng bị Chư Tăng và cận sự nam nữ xua đuổi, hiện giờ đang ở trong một cái chòi hoang sát bìa rừng, ngoại ô thành phố, về hướng Tây. Thế rồi, cả hai vị đã tìm thấy. Tỳ-khưu Kolàlika đang nằm trên một chõng tre, tấm chăn rách nát, mụt nhọt lở loét hôi hám. Có một sa-di đi ngang thương tình ở lại chăm sóc chút cháo, chút hồ. Cả hai Tôn giả đi hái lá thơm, kiếm nồi nấu nước sôi, pha nguội, giặt khăn rửa ráy cho bệnh nhân. ôi mắt tỳ-khưu Kolàlika ứa ra hai giọt lệ, định nói gì nhưng Tôn giả Xá-Lợi-Phất xua tay - Hiền giả không cần phải nói gì cả. Cũng không cần thiết mở lời cám ơn. Tôn giả Mục-Kiền-Liên đến bên, vỗ về - Tôi biết rõ hiền giả muốn sám hối những lỗi lầm trước đây của hiền giả với ức Thế Tôn, với cả hai chúng tôi. iều ấy là tốt, nhưng cứ sám hối trong tâm thôi. Chúng tôi đã tha thứ lỗi lầm ấy cho hiền giả rồi! Tỳ-khưu Kolàlika quá yếu, thoi thóp thở, lát sau, vật vả, đau đớn rồi từ trần, hai con mắt lòi ra không nhắm lại được! Chú sa-di vô danh thở dài - Ai cũng mạt sát, phỉ nhổ vị tỳ-khưu này cả, nhưng thấy ông ta bị trả quả hiện tiền thật là kinh khủng, cũng tội! Buổi chiều, dân làng hay tin, họ chất củi đầy cả chòi hoang rồi thiêu xác, họ bảo với nhau là ông Sa môn ấy bị quỷ ma bắt! Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói như nói một mình - Ông ta còn biết sám hối đấy, nhưng quả thật là đã quá muộn màng! Ngày hôm sau, Tôn giả Mục-Kiền-Liên bận việc đi giáo giới một người đệ tử ở rừng sâu đang gặp chướng ngại trong thiền định, Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại phải rủ Tôn giả Mahà-Cunda đi thăm Trưởng lão Sa-Nặc Channa cũng đang trầm trọng trên giường bệnh. Tôn giả tự nghĩ "- Vị tỳ-khưu này đã từng kết oan trái với ta, nhưng dẫu sao cũng có duyên lành hơn tỳ-khưu Kolàlika!" Trưởng lão Sa-Nặc đang bị cơn bệnh dày vò, quằn quại. Tôn giả Xá-Lợi-Phất quan tâm nhắc nhở - Hãy để tâm rỗng không, hiền giả! Tâm rỗng không nếu được an trú thuần thục sẽ chống đỡ được tất cả mọi đau đớn! Trưởng lão Sa-Nặc phập phều - Tôi hiểu, tôi hiểu, cảm ơn Tôn giả! Tôn giả có tha thứ cho những lỗi lầm của tôi không? - Nhất định như vậy rồi! Tôi đã tha thứ lỗi lầm cho hiền giả cách đây mấy chục năm kia đấy! Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại ân cần nói - Chúng tôi sẽ tìm thuốc men và chút cháo phù hợp cho hiền giả dùng. Ráng thiền quán xem "cảm thọ chỉ là cảm thọ thôi!" - Thưa vâng! Thế rồi, Tôn giả Mahà-Cunda đến nhà đại thí chủ Visàkhà kiếm thuốc, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đến nhà trưởng giả Cấp Cô ộc tìm cháo. Khi hai vị ra đi không bao lâu; Trưởng lão Sa-Nặc phát triển thiền quán, thấy rõ Vô Sanh; sau đó, Trưởng lão đi sâu vào định, chấm dứt hơi thở và chấm dứt luôn thọ mạng. Khi hai vị trở về thì ức Thế Tôn đã có mặt bên cạnh, Ngài nói với tất cả chúng tỳ-khưu vây quanh - Này các thầy! Các thầy đừng nghi ngờ gì nữa cả. Sa-Nặc rất an lành. Sa-Nặc có trạng thái tâm hối quá rất tốt. Trước giờ lâm tử, Sa-Nặc đã phát triển thiền quán, tức khắc đắc quả A-La-Hán nhờ lời nhắc nhở của Xá-Lợi-Phất. Ông ta, sau đó đã trú định và ra đi, ý rằng không còn muốn phiền ai săn sóc cho mình nữa! * * * Khi hỏa thiêu thi hài Trưởng lão Sa-Nặc trở về, Tôn giả Xá-Lợi-Phất gặp Tôn giả La-Hầu-La, Ngài dừng chân lại. - ã khá lâu không gặp con, lúc này dáng dấp và thần sắc của con uy nghi, đỉnh đạt như ức Thế Tôn. Tôn giả La-Hầu-La mỉm cười - Thầy cũng vậy, con chưa bao giờ tìm ra được một nét nào là mệt mỏi ở nơi thầy. - Thân xác này thì có mệt mỏi đấy con ạ! Tôn giả La-Hầu-La nói - Con muốn thưa với thầy một chuyện. - Con hãy nói đi? - Con muốn ở trong phòng. Khi đến tịnh thất, Tôn giả La-Hầu-La quỳ sát đất, đảnh lễ Tôn giả Xá-Lợi-Phất ba lần rồi nói - Con còn trẻ, thưa thầy! Thế mà cái thân của con đã mệt mỏi, tuổi thọ của con đã sắp hết rồi. Xin phép thầy cho con được nhập diệt. Tôn giả Xá-Lợi-Phất im lặng một hồi. - Con lại muốn ra đi trước ta? - Thưa, con tự biết sự đổi khác, biến hoại ở trong con. Con đã xin phép ức Thế Tôn. Im lặng. - Con muốn nhập diệt ở đâu? - Thưa, vì có duyên với cõi trời, nên con sẽ an nghỉ vĩnh hằng ở cõi trời Ba Mươi Ba. Lại im lặng. - ức Thế Tôn có dạy bảo điều gì không? - ức ạo Sư nhìn con một hồi rồi Ngài nói "Các ngươi hãy đi trước hết đi, Như Lai đi sau cũng được". - Thế là Giáo Hội càng ngày càng trống rỗng! Tôn giả La-Hầu-La đảnh lễ rồi chấp tay - Từ ngày bước vô Giáo Hội cho đến khi thấy được đạo Bất Tử và cả sau này, con có lỗi lầm nào dầu vô tình hay cố ý, xin thầy hoan hỷ xá tội lỗi ấy cho con! - Dĩ nhiên thế rồi! Có lỗi hay không có lỗi đều như gió thoảng mây bay, con biết thế mà! - Thưa vâng! - Còn gì nữa không con? - Thưa, còn hai việc nữa? - Vậy thì hãy ngồi lên đây mà nói chuyện - Tôn giả đứng lên, sửa soạn chỗ - con hãy qua đây, bên cạnh ta đây! Sau khi yên vị, Tôn giả La-Hầu-La nói - Tỳ-khưu Losaka - cậu bé khốn khổ, nghe lời thầy, con vẫn săn sóc luôn, nhưng không bao giờ vị ấy được đầy đủ vật thực. - Ta biết! - Kể từ khi đắc quả A-La-Hán đến nay cũng vậy! - Ta biết! - Dường như, "thọ hành" tuổi thọ của vị ấy cũng không còn được bao lăm! - ược rồi! Ta sẽ đi thăm tỳ-khưu Losaka! Còn việc thứ hai là gì? - Con muốn đọc cho thầy nghe một bài thơ được cảm hứng sau giây phút chứng ngộ. Tôn giả cười - Hay lắm! Thú vị lắm! Con hãy bắt đầu đi. Thế rồi, Tôn giả La-Hầu-La đứng dậy, bước tới bước lui và đọc lên bài thơ tâm đắc của mình "- Ôi! Giữa thế giới ba ngàn này có ai hai lần được diễm phúc như ta? là con của ức Vô Thượng! và là kẻ đã chiến thắng vinh quang, chiến thắng Khổ au và Sự Chết! là bậc A-La-Hán Vô Sanh ta xứng đáng được mọi người mến yêu, tán dương và tôn trọng. đáng thương thay chúng sanh bị bít bùng trong màng lưới của tham ái, si mê và khát vọng! như cá nằm trên thớt! như thỏ nằm trong rọ! ta đã xây lưng lại rồi không còn nghe tiếng gọi của trần gian vô minh kia nữa! ta đã cắt đứt mọi sợi dây trói buộc chẳng còn cái chồi nào cho các sợi dây leo và tua uốn gốc rễ Tử Sanh đã được bứng tận bao nhiêu lửa nóng đã bị vùi tro giữa bầu trời mùa xuân mát mẻ ta ca lên bài ca tự do!" Tôn giả Xá-Lợi-Phất tán thán - úng là một kiệt tác, đúng là một tuyên ngôn Bất Tử! Bài thơ này rồi sẽ còn được truyền tụng nhiều ngàn năm sau đấy, con biết không? Tôn giả La-Hầu-La nhìn Tôn giả Xá-Lợi-Phất rất lâu. - Giờ đã đến thời. Chúc thầy ở lại mạnh giỏi, con đi đây! Tôn giả La-Hầu-La lại quỳ xuống đảnh lễ. Tôn giả Xá-Lợi-Phất ân cần nắm tay. Khi bốn bàn tay vừa rời ra thì Tôn giả La-Hầu-La đồng thời cũng biến mất, vô hình vô ảnh. Tôn giả Xá-Lợi-Phất bước ra khỏi tịnh thất, đăm đăm nhìn lên trời cao. Tiếng Tôn giả Mục-Kiền-Liên nói sau lưng - ệ sẽ lên đó ngay lập tức. Bảo với Thiên Chủ ế Thích chuẩn bị một bảo tháp tôn nghiêm, quý trọng để tôn trí xá-lợi của La-Hầu-La! Tôn giả Xá-Lợi-Phất quay lại. - Các người ai cũng muốn du hí thần thông trước mặt ta. Nhưng mà này, hiền đệ! Lên trên đó nhớ nhắc nhở ế Thích đừng quá phóng dật. - Thưa vâng! Tôn giả Mục-Kiền-Liên vừa nói xong thì cũng không còn thấy bóng dáng ở đâu nữa. Ngài Xá-Lợi-Phất tự nghĩ "- Không trách gì người đời ai cũng ham muốn thần thông phép lạ." * * * Từ khi đứa bé được Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhặt lên từ đống rác, đem về Kỳ Viên cho xuất gia sa-di, đến tuổi thọ đại giới, có tên là tỳ-khưu Losaka. Losaka vì nghiệp quá khứ nên không có công đức, ít nhận được đồ ăn cúng dường. Dầu cho có cuộc bố thí lớn cách mấy, không có gì sánh nổi, bụng của Ngài cũng không được no, chỉ vừa đủ để duy trì mạng sống. Một muổng cháo thôi thì hình như đã đầy tràn miệng bát của Ngài. Người ta luôn cảm thấy bát của vị tỳ-khưu Losaka đã đầy dầu bên trong không có gì nên lại đem dâng cúng cho vị đi sau. Tuy vậy, tỳ-khưu Losaka tu hành rất tinh tấn, thiền quán tăng trưởng, sau một thời gian, Ngài chứng quả A-La-Hán. Song, Ngài vẫn được cúng dường ít ỏi. Vì thiếu thốn vật thực nên "thọ hành" giảm thiểu và ngày nhập Niết Bàn đã đến! Sau khi nghe Tôn giả La-Hầu-La mách bảo, Ngài Xá-Lợi-Phất tìm thăm, hướng tâm đến, biết được thọ mạng của người đệ tử sắp chấm dứt, bèn nghĩ rằng "- Tỳ-khưu A-La-Hán Losaka hôm nay sẽ nhập Niết Bàn. Ta sẽ làm thế nào cho vị ấy được một bữa ăn no bụng lần cuối cùng." Thế rồi Tôn giả dẫn Ngài Losaka vào thành Xá-Vệ để khất thực. Dẫu cả thành phố ai cũng biết Tôn giả, kính trọng Ngài, nhưng hôm đó cả hai đều không nhận được một lời chào huống nữa là cúng dường. Thấy chuyện lặp lại đúng như trước dây, Tôn giả Xá-Lợi-Phất liền bảo Ngài Losaka về trước, ngồi tại giảng đường rồi Ngài sẽ gởi vật thực về sau. úng như Ngài nghĩ, khi Tôn giả Losaka vừa rời khỏi, Ngài liền đầy một bát, đầy hai bát. Tôn giả sớt ra nhiều phần, gặp vị tỳ-khưu nào, Ngài cũng bảo mang về cho Tôn giả Losaka đang ngồi đợi tại giảng đường. Tuy nhiên, vì nghiệp báo xui khiến, tất cả những người mang về đều quên, không đem những phần vật thực đến cho Ngài Losaka, hoặc họ ăn hết hoặc họ đem cho người khác. ến trưa, khi về tịnh xá, Tôn giả Losaka đến gặp Ngài để đảnh lễ. Bậc Tướng Quân Chánh Pháp nói - Này con! Con có nhận được đồ ăn ta gửi về không? Vì là bậc Thánh, Tôn giả Losaka trả lời - Thưa Tôn giả, thưa thầy! Rồi con sẽ nhận được! "Rồi con sẽ nhận được, nghĩa là hiện giờ chưa nhận được!" - Tôn giả Xá-Lợi-Phất ngẩng đầu nhìn trời đã quá ngọ! - Hãy ngồi xuống đây, con! Hãy ngồi xuống đây! Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói nhanh, chỉ đợi ta trong giây lát thôi! Xong, như cánh chim ưng vàng, Tôn giả quăng bát qua hư không, vận thần thông lực Ngài cũng có đại thần thông nhưng ít khi sử dụng bay sang trú xứ của vua Kosala. Ở đây, sau khi nhận đủ bốn loại bánh ngọt - những thức ăn phi thời - Tôn giả mau chóng trở về với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay! Tôn giả cầm bát, đứng và nói với Ngài Losaka - Này con! Hãy ăn đi! ây là những vật thực được phép dùng lúc phi thời. Ta cho phép con hãy lấy tay bốc và ăn. Ngài Losaka vì lòng kính trọng thầy, không thể để thầy đứng cầm bát cho mình ăn, nên ngần ngại. Tôn giả Xá-Lợi-Phất phải giải thích - Này con! Hạnh cung kỉnh ấy rất quý báu, nhưng đây là do ta cho phép chứ không phải tự ý của con. Ta cầm bát và đứng. Con cứ thò tay bốc và ăn. Ta biết rõ rằng, khi hai bàn tay ta vừa rời khỏi bình bát thì sẽ không còn một tí vật thực nào ở trong ấy nữa. Do thần thông lực của Bậc Tối Thượng Thủ duy trì, nên bánh không thể biến mất. Và nhờ vậy, Tôn giả Losaka được ăn một bữa như ý muốn, đầy đủ, no bụng. Tôn giả Losaka quỳ xuống bên chân Ngài Xá-Lợi-Phất, nói rằng - Con đã thấy nghiệp của con rồi, và hôm nay con đã trả hết nghiệp. Con cũng chẳng còn luyến gì cái thân này nữa, thầy hãy cho con nhập diệt! - À! Chỉ con biết lúc nào là phải thời! Vậy con muốn nhập diệt ở đâu? - Thưa, ở đây, tại chỗ này! Tại chỗ mà nhờ ân đức của thầy, con được ăn một bữa no bụng, trong suốt cuộc đời! Thế rồi, ngay chiều hôm ấy, Tôn giả Losaka nhập Niết Bàn không có Dư Y. Bậc Chánh ẳng Chánh Giác đứng một bên chứng kiến thi hài được hỏa táng. Tôn giả Xá-Lợi-Phất tự nghĩ "- Có mặt ức Thế Tôn thì quả là đại hạnh cuối cùng cho hiền giả Losaka vậy." ã tiễn rất nhiều người rồi, thế mà Tôn giả còn phải tiễn một nhân vật quan trọng khác. Con trai của trưởng giả Cấp Cô ộc đến đảnh lễ ức Thế Tôn, vấn an sức khỏe của ức Thế Tôn, và báo rằng bệnh tình của trưởng giả đã đến hồi trầm trọng, xin Tôn giả Xá-Lợi-Phất hãy mở lòng bi mẫn đến thăm viếng trước khi ông nhắm mắt. Nghe tin vậy, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã cùng Tôn giả Ànanda không chút chậm trễ, lên đường tức khắc. - Ông có đau đớn lắm không? Có chịu đựng được không? Có triệu chứng tăng trưởng cơn đau hay là đang thuyên giảm? - Thưa, có cái gì đó trong con đang băng hoại, đang rữa nát hay là đang bị vỡ vụn ra từng khúc! Cái thân con dường như không còn chịu đựng được nữa rồi! - Dĩ nhiên là vậy! Tôn giả nắm tay ông - cái thân nào rồi cũng đến lúc bị hủy hoại, nhưng mà ông còn tỉnh trí không, còn sáng suốt không, hở người hiền trí? - Thưa, con minh mẫn lắm! sự sáng suốt ở trong con không bị mây che! - Vậy là rất tốt. này ông trưởng giả! Hãy chú tâm nhé, ta sẽ thuyết cho ông nghe một thời Pháp! - Thưa vâng, con mong muốn lắm. Con sẽ rất chú tâm! Rồi Tôn giả thuyết thời Pháp sau đây - Này trưởng giả kính mến! Hãy ghi nhận theo lời ta mà quán tưởng như thế này "Này Người Thợ Sinh Diệt! Ta không còn dính mắc với đôi mắt, với lỗ tai, với cái lưỡi, lỗ mũi và làn da xúc cảm nữa! Ngươi cứ không ngưng nghỉ tạo ra những cảm thọ trống không vô vị; như bọt nước, như hoa đốm, như hoa trong gương, như trăng đáy nước... như con chó gặm khúc xương khô! Ngươi không còn lừa bịp ta được nữa đâu! Ngươi không còn làm gì được ta nữa đâu! Này hỡi Người Thợ Sinh Diệt! Những ảo ảnh do ngươi ngụy tạo ra, ta đã nhìn thấy rồi! Những cái gọi là vừa lòng, êm ái, khoái lạc, ngon ngọt, thỏa thích, khả hỷ, khả ái từ lâu đã quyến dụ ta, mê hoặc ta như cá dính câu, như chim sa lưới, nay thì ta không còn mắc mưu ngươi nữa! Ôi! Tất cả rồi sẽ bị phân ly, biến hoại, rã tan. Dẫu thân này hay thân khác, dẫu thế gian này hay thế gian khác, không bao giờ có việc thường còn, cực lạc, hay trường sanh bất lão đâu. Tất cả đều là đau khổ và phiền não! Này hỡi Người Thợ Sinh Diệt! Ta đã tu tập như vậy, ta đang tu tập như vậy, ta đã an trú như vậy thì ta nhất định sẽ chiến thắng ngươi. Từ nay, ngươi không còn làm gì nỗi ta đâu!" Nghe xong thời Pháp, trưởng giả Cấp Cô ộc ràng rụa nước mắt. Thấy vậy Tôn giả Ànanda hỏi - Này trưởng giả kính mến! Ông lo sợ về điều gì? Ông buồn khổ về điều gì? Hay tinh thần ông đã trở nên quá suy nhược? - Thưa không, bạch nhị vị Tôn giả! Lo sợ hoặc buồn khổ hoàn toàn không có ở trong con. Và tinh thần của con không chút giảm suy, trái lại, đang phấn chấn, đang thịnh mãn, đang phỉ lạc. Ấy chỉ vì mặc dầu đã dự thính rất nhiều bài Pháp do ức Tôn Sư giảng, con chưa hề được nghe một bài Pháp cao siêu như thế nầy! Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói - Cũng đúng thôi, trưởng giả! ấy là những bài Pháp cao siêu chỉ để giảng cho những vị tỳ-khưu có trình độ tâm linh tiến hóa. Trong Tăng chúng rất nhiều vị chưa hề được nghe, huống hồ là cư sĩ, ngại rằng họ sẽ không thấu hiểu! Trưởng giả kính mến! Ông cũng là cư sĩ, nhưng ông nghe được, tại sao? Vì ông có tâm của bậc đại nhân! Ông đã chi dùng một gia sản năm trăm bốn chục triệu đồng tiền vàng cho Giáo Pháp của ức Tôn Sư mà không một chút chau mày. Chí đến lúc chỉ còn cháo tấm và bột chua mà ông vẫn không chau mày, vẫn giữ đức tin tuyệt đối, bất động với Tam Bảo! Tâm ông quảng đại, đầy vị tha và nhân ái nữa. Những người nghèo khổ, cơ bần, cô độc cả thành Xá-Vệ coi ông như một người mẹ vĩ đại. Mái nhà của ông là bóng mát thân yêu cho hàng ngàn tỳ-khưu. Này trưởng giả kính mến! Như vậy tâm linh ông tiến hóa, tinh thần ông vượt trội - lại là Bậc Thánh Thất Lai nữa - quả thật ông xứng đáng được nghe bài Pháp cao siêu ấy! Trưởng giả Cấp Cô ộc muốn ngồi dậy đảnh lễ nhưng Tôn giả Ànanda ngăn lại - ông mỉm cười mà nước mắt lưng tròng, nghẹn ngào - Tri ân Trưởng lão, tri ân nhị vị Tôn giả! Hiện giờ con rất sung sướng, nội tâm con bình an mặc dầu thể xác đau đớn kịch liệt. Con hoàn toàn mãn nguyện. Con chỉ có một lời thỉnh cầu. - Ông cứ nói! - Con chỉ mong Trưởng lão thỉnh thoảng giảng những bài Pháp cao siêu này đến cho những cư sĩ tiến bộ. Con lãnh hội được thì chắc cũng có một số cư sĩ sẽ lãnh hội được. - úng vậy! Ta sẽ xin với ức Tôn Sư từ lời thỉnh nguyện của ông! Khi hai vị Tôn giả trở về không được bao lâu thì trưởng giả Cấp Cô ộc trút hơi thở cuối cùng, tức khắc tái sanh vào cung trời âu-Suất. Sáng ngày, ức Phật gọi Tôn giả Xá-Lợi-Phất rồi hỏi rằng - Hôm qua ông đã làm gì mà ông Cấp Cô ộc tán dương ông dữ vậy? - Thưa, đệ tử... - Hồi hôm vị trời Cấp Cô ộc từ cung trời âu-Suất xuống đây đảnh lễ Như Lai và nói rằng phẩm hạnh và tài đức của ông còn sáng muôn vạn lần so với hào quang của tất cả vị trời cọng lại. Vị trời ấy ví von vậy cũng không sai lắm đâu! - Bạch ức Thế Tôn, đệ tử đã tự ý... - Như Lai đã hiểu. Và ông làm vậy là đúng. Từ rày Như Lai cho phép Chư Thánh Tăng Trưởng lão giảng những bài Pháp cao siêu đến cho những cư sĩ có trí. - Thưa vâng! - Thôi ông hãy về đi! Ông cứ tiễn người này lên đường rồi người khác lên đường - cái thân quá mệt mỏi thì cũng nên cho nó nghỉ ngơi một tí! - Vâng, bạch ức Thế Tôn! Tôn giả Xá-Lợi-Phất cúi đầu, tự nghĩ "- ấng ạo Sư đã biết rõ cái thân ta bắt đầu biến hoại. Mọi người lần lượt ra đi, mình cũng không còn lâu nữa." Cuộc từ giã vĩ đại Sau khi an cư mùa mưa ở làng Beluva, ức Thế Tôn và Tăng chúng bộ hành qua nhiều chặn đường xa về Kỳ Viên tịnh xá. Tôn giả Xá-Lợi-Phất cảm thấy cơ thể rã rời, dường như không còn chút hơi sức nào. Ngài biết rằng, tấm thân này đã như một cỗ xe quá cũ, các trục đã mòn, các căm đã lỏng lẻo hoặc hư mục. Rõ ràng đây là lúc phải tính chuyện ra đi! Thế rồi, Tôn giả trở về tịnh thất, cất đặt y bát, quét dọn phòng, trải tọa cụ rồi đi vào định diệt thọ tưởng. Khi xả thiền thì trời đã vào khuya, lúc đứng dậy, Ngài nghe các khớp xương đau nhức và trong đầu như có cái gì bén nhọn đâm vào rồi lại kéo ra. Tuy thế, đi kinh hành một lát, Ngài lại trở về chỗ tọa cụ, ngồi xuống, nghĩ rằng "- Ta sẽ nhập diệt trước ức Thế Tôn hay là sau Ngài?" Tôn giả hướng tâm đến, biết rằng, bao giờ vị ại ệ Tử cũng nhập diệt trước vị Phật. "- Còn Mục-Kiền-Liên thì sao?" Tôn giả lại biết Mục-Kiền-Liên sẽ nhập diệt sau Ngài nửa tháng. Và thọ hành của Ngài chỉ còn duy trì được bảy ngày. Vậy thì trong thời gian này, Ngài còn bổn phận gì trên đời cần phải thực hiện? Dĩ nhiên Ngài lại nghĩ đến mẹ. Mẹ Ngài là cái gì vẫn mãi canh cánh bên lòng. Mặc dầu cả thảy bảy người con trong gia đình đều đắc quả A-La-Hán nhưng bà Sàrì không tin Tam Bảo, vẫn xem thường ức Phật và Tăng chúng, vẫn đặt niềm tin mù quáng theo ngoại đạo. Tại sao Ngài lại không thể cứu độ mẹ được? Cả hàng ngàn Chư Thiên, Ngài đã từng an trú cho họ vào các tầng Thánh quả. Cả hàng ngàn gia đình cư sĩ, Ngài đã mở những cánh cửa trời cho họ bước lên? Cũng đã hàng ngàn tỳ-khưu và sa-di nhờ Ngài mà họ bước vào dòng Thánh? Kể cả các giáo phái chủ, giáo phái sư, Bà la môn trưởng giáo, Bà la môn hữu danh, vua chúa, đại thần, tướng quân, thương gia... dẫu kiêu căng, cứng đầu, trịch thượng - nhưng sau khi nghe pháp họ đã trở nên nhu thuận, dễ dạy! Thế thì tại sao Ngài lại bất lực trước mẹ Ngài? Có lẽ vì thiếu trí tuệ hoặc vì nhân duyên của bà chưa chín muồi? Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại trở nên trầm ngâm - Ngài đang hướng tâm quan sát căn duyên của mẹ. Chợt Ngài thốt lên "- Hay thay! Tuyệt diệu thay! Mẹ ta sẵn đủ căn duyên bước vào Thánh ạo!" Rồi Ngài lại nghĩ tiếp "Vậy ai là người có duyên để cứu độ mẹ ta?" Sau khi biết kẻ đó chính là mình, Ngài quyết định "- Vậy thì ta sẽ nhập diệt ở chốn cố hương, nơi chỗ mà ta chào đời để cứu độ mẹ ta!" Sáng hôm sau, Tôn giả Xá-Lợi-Phất trình bày quyết định của mình cho Tôn giả Mục-Kiền-Liên hay. Cả hai ngồi yên lặng một hồi lâu. - ại huynh tính như vậy thì tình, lý, thời đều trọn vẹn. Thôi, đại huynh đi trước, đệ sẽ đi sau nhé! Tôn giả Xá-Lợi-Phất đứng lên, nắm tay Mục-Kiền-Liên - Chúng ta sẽ không gặp nhau nữa. - Cũng vừa đủ, đại huynh! ã kinh qua suốt cuộc đời, chúng ta đã không làm một con người vô ích, đã làm việc hết sức mình, cơ thể chúng ta đã không còn chịu đựng được nữa rồi! - úng là vậy, hiền đệ! Chúng ta làm bạn với nhau suốt trong tuổi thơ ấu, thanh niên, và hơn bốn mươi năm trong Giáo Pháp của ức Tôn Sư. Chúng ta đã hợp tác chặt chẽ với nhau trong mọi công việc được ức Thế Tôn giao phó, chưa lần nào chúng ta tranh cãi một lời, luôn luôn thuận thảo, tương kính, luôn luôn tự hòa, hoan hỷ. Thật là tốt đẹp thay một cuộc đời biết sống! Tôn giả Mục-Kiền-Liên nắm tay xiết chặt, mỉm cười - Không biết mấy triệu năm mới có một cuộc tương ngộ và một cuộc vĩnh biệt như thế này? Hãy cho đệ đảnh lễ lần cuối cùng, một người anh duy nhất, cao cả và siêu việt! ại Mục-Kiền-Liên quỳ xuống đảnh lễ. Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng quỳ xuống đảnh lễ theo. Cả hai đều rất trân trọng và thành kính. Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói - Từ khi thấy được Giáo Pháp Bất Tử, huynh không tìm thấy chỗ nào là huynh, chỗ nào là đệ ở trong hai chúng ta cả. ây chỉ là sự tương kính Pháp. Huynh cũng đã đảnh lễ một người em duy nhất, cao cả và siêu việt! Cả hai vị Tôn giả tối thượng từ giã nhau như vậy, vĩnh biệt nhau như vậy, thân thiết mà xa xôi, đậm đà mà lạnh lẽo, chẳng vướng bận gì, chẳng níu kéo gì. Như mây bay, như gió thoảng. Rỗng không như hư không. Sau đó, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đi khất thực. Ngài muốn đi một vòng quanh thành Xá-Vệ thăm viếng một lần cuối cùng nơi mà Ngài đã từng sống với Chư Tăng và mọi người trong bao nhiêu năm, nơi mà Ngài có đủ vật thực để hành đạo. Ngài phải biết tri ân điều đó. Về lại tịnh xá Kỳ Viên, Ngài cũng đi thăm một vòng như thế. ộ ngo xongï, Ngài cho gọi Trưởng lão Cunda - là em của Ngài - đến rồi nói - Này Cunda! Hãy chuẩn bị về quê thăm mẹ, cùng với ta! - Thưa vâng! - Hãy bảo rằng là ý của ta, cho tụ họp năm trăm tỳ-khưu môn đệ, cùng bộ hành với ta về Nàlakà luôn thể! - Thưa vâng! Khi Cunda quay lưng bước đi, Tôn giả Xá-Lợi-Phất chợt kêu lại - Này Cunda! Trong bao năm sống với đại huynh, đại huynh có làm phiền gì đến em không? - Dạ thưa không! ại huynh trắng bạch như vỏ ốc. Bảo làm phiền thì chẳng khác nào là em không có tai, không có mắt, không có tim, không có óc! Tôn giả lại ân cần - Em đã là một Trưởng lão cao hạ rồi. Ta hỏi thế thôi chứ ta biết em an vui, tinh tấn, sống rất hài hòa với mọi người, lại được hạnh phúc trong Pháp nữa. Trưởng lão ngần ngừ một lúc - Lần này có thể dắt mẹ qua bờ được không? - Báo tin vui cho em hay là chắc chắn được! Trưởng lão Cunda cảm thấy hoan hỷ trong lòng, chào Tôn giả rồi đi ngay. Ngài Xá-Lợi-Phất lấy chổi quét dọn tịnh thất, cất đặt mọi thứ đâu đó cho ngăn nắp. Dọn dẹp bên trong rồi Ngài ra dọn dẹp xung quanh hành lang. Xong xuôi, đắp y, mang bát - Ngài bước ra bên ngoài, khép cửa lại. Ngài đi quanh ba vòng rồi bước ra xa, nhìn ngắm lại tịnh thất. Ngài nói thầm trong tâm rằng "- Cảm ơn ngươi đã che mưa đỡ nắng cho ta bao ngày. ây là cái nhìn cuối cùngcủa ta ngươi biết không? Nhưng khi ta đi rồi, thì hy vọng rằng, sau ta, nhiều vị A-La-Hán khác nữa sẽ ở trong vòng tay ấm cúng của ngươi." Lát sau, Trưởng lão Cunda cùng năm trăm tỳ-khưu đi đến. Họ đều đảnh lễ Tôn giả và chờ lệnh. Tôn giả nói - Các thầy sẽ vất vả bộ hành đường xa, nhưng rồi sẽ thâu hái được nhiều điều bổ ích. Bây giờ hãy cùng ta đến đảnh lễ ức Tôn Sư! ức Thế Tôn đã biết, lúc ấy, Ngài đang chờ họ ở ại Giảng ường. Sau khi đảnh lễ, Tôn giả quỳ xuống bên chân ức ạo Sư - Hôm nay, đệ tử đến đây để chào ức Tôn Sư lần cuối cùng. ệ tử sắp từ bỏ huyễn thân và từ bỏ cõi đời trần tục này. Thọ hành của đệ tử như ngọn đèn leo lét. Xin ức Tôn Sư cho đệ tử được nhập diệt. ức Thế Tôn im lặng. Tôn giả lại cất giọng khẩn thiết - Ôi! ệ tử biết nói lời gì khi vĩnh biệt một bậc vĩ nhân siêu quần bạt tụy? Chính nhờ Ngài mà đệ tử bước ra khỏi bể khổ trầm luân để đi theo dấu chân giải thoát của Ngài. Từ đây, đệ tử sẽ không còn lang thang vô định, tới lui giữa sáu cõi khổ vui sinh diệt nữa. ây là lời phụng bái thứ nhất của đệ tử! Tôn giả cung kỉnh đảnh lễ. - Giờ đây, thân xác tứ đại của đệ tử bắt đầu rã tan, trả về cho tứ đại. Chỉ bảy hôm nữa, thọ hành của đệ tử sẽ chấm dứt vĩnh viễn, kể cả ngũ uẩn này cũng không còn tiếp tục chồng chất, rối loạn, lòe bịp ai được nữa. Thế là gánh nặng muôn đời đã được buông bỏ xuống. ệ tử sẽ hoàn toàn giải thoát, không còn bất kỳ một hạt bụi phiền não nào còn tồn tại. ạn đức ấy thuộc về ức Tôn Sư, triệu triệu năm không đền đáp được. Hãy cho đệ tử thêm một phụng bái nầy! Tôn giả cung kính đảnh lễ. -Ôi! Hồng ân của ức Tôn Sư là đời đời bất diệt. Từ khi bước chân vào Giáo Pháp Bất Tử, đệ tử đã biết sống một đời có ích, biết phục vụ và biết phát huy, tăng trưởng sung mãn những phẩm chất cao đẹp của con người. Thế nên biết bao chúng sinh đã được lìa xa khổ não? Biết bao Chư Thiên và nhân loại đã được nếm hương vị của Pháp mầu? Giờ đây, đệ tử đi vào Niết Bàn với tâm tư hoàn toàn thanh thản và mãn nguyện. Xin ức Thế Tôn cho phép đệ tử được nghỉ ngơi vì cái cỗ xe thân xác này đã đến lúc rã mục. Cho đệ tử được phụng bái một lần nữa, thay mặt chúng sinh, tri ân Bậc Vô Thượng Giác! Cả hội trường im lặng như tờ. âu đó dường như có tiếng khóc nho nhỏ. Rất nhiều Chư Tăng không ngăn được giọt lệ. ức Thế Tôn cất giọng bình thản - Này Xá-Lợi-Phất! Ông sẽ nhập diệt ở đâu? - Tại quê hương của đệ tử, làng Nàlakà, tại chỗ mà đệ tử được chào đời! ức Phật hỏi tiếp - Thời gian từ đây đến đó có kịp không? - Thưa, dư dã. - Vậy thì đây là việc cần thiết, sau lần từ giã này, Chư Tăng và huynh đệ sẽ không còn cơ hội được gặp mặt ông nữa, ông hãy ưu ái đến hội chúng thuyết cho họ nghe thời Pháp cuối cùng. Vâng lời, Tôn giả bước lên một bảo tọa thấp hơn, ngồi ngay ngắn, đoan nghiêm, nhiếp tâm thanh tịnh rồi ban một thời Pháp chưa từng được nghe. Thời Pháp như tiếng gió rì rào bất tận, như hải triều âm xa mù đại dương, từng đợt sóng cuộn va đập vào ghềnh đá. Liên miên. Bất tuyệt. Gió lại lặng, sóng lại tan... Cử tọa thính chúng chợt như thấy trước mắt mình một bình minh tươi sáng, một mùa xuân mát mẻ an lành hiện ra sau đêm đông lạnh lẽo. Tuyết tan, tiếng chim reo vui, muôn hoa đua nở, hương trời bàng bạc, dịu dàng như xoa dịu tất cả những tâm hồn khổ đau... Ngài nói về đời Ngài bị bít bùng bởi truyền thống, bởi tâm thức ngoại giáo, sống trong bóng tối nô lệ của thần quyền, bước đi trong mê lộ của những thứ triết học rối rắm, tơ vò, hợm hĩnh và cao đại. Có những lời, những chữ dệt gấm thêu hoa, kết nên tư tưởng dược đóng khung, được mạ vàng, được quảng cáo rầm rộ là chân lý bất diệt nhưng thực chất là rỗng không, không có linh hồn, không có sự sống. Tất cả đấy chỉ là lớp ngụy trang, là cái vỏ hào nhoáng che bên ngoài các bản ngã với những dục vọng thô thiển cũng như tế vi! Thế rồi từ đời này sang đời nọ, cha ông, cháu con, hệ hệ được nối tiếp, kế thừa; hình thành một tập cấp buôn thần bán thánh, rêu rao vì đại bi, vì phương tiện tối thượng thừa, vì lòng từ của Thượng ế! Chúng nắm độc quyền về tinh thần, miệng lưỡi trả giá như con buôn, thao túng bọn dân ngu khu đen, chụp vào bàn tay lông lá những đặc quyền đặc lợi, ăn trên ngồi trước, no nê phè phỡn, nhảy múa bên bờ vực thẳm của Tử Ma. Thế rồi, tiếng trống Bất Tử có mặt giữa đời, xóa tan mây mù hôn ám; như một sinh khí mới, làn sóng Pháp bảo uy dũng và dịu dàng cuốn đi tất cả mọi rác rưởi xú uế của thần linh và con người ngu si để lại. ấng Vô Thượng Tôn ngự giữa tầng mây, gióng lên tiếng sấm, thức tỉnh mọi loài, một cơn mưa hoa nhân ái, sáng rỡ trí tuệ, mênh mông giải thoát; mở ra một lộ trình hướng thượng, một cánh cửa đã đóng kín tự ngàn xưa, đem chúng sanh đến các cõi chân phúc và xán lạn. Ôi! Con đường ấy là gì? Cánh cửa ấy là gì? Hỡi ai có chân để bước, có tay thì gõ mà vào! Một vị Chánh ẳng Chánh Giác đã xuất thế, qua hằng triệu năm tu tập công hạnh, thăng hoa phẩm chất, kết đài Trí Tuệ! Từ đỉnh Hy mã lạp sơn bước xuống, giòng sông ại Hằng mở ra, quả địa cầu cúi mình xuống thấp, nghênh đón bước chân nở bảy hoa sen; Ngài đi giữa chốn loài người bốn mươi lăm năm không mệt mỏi vì lợi ích và hạnh phúc cho Chư Thiên và Nhân Loại. ức Thế Tôn ấy là Thầy của Ngài, cho Ngài uống được giọt nước trong mát tận đầu nguồn Thánh hạnh... Ôi! ầu nguồn Thánh hạnh ấy là gì? Hỡi ai có tai để nghe, có trí để tìm hiểu!... Vốn làu thông cả Ba Tạng, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã đi từ những pháp cao siêu nhất xuống những pháp gần gũi và giản dị nhất. Rộng thì rộng đến vô biên mà nhỏ thì có thể đựng đầu hạt cải. Và cuối cùng, lộ trình hướng thượng ấy, cánh cửa Bất Tử ấy chỉ còn là đứng đi nằm ngồi, mặc áo, ăn cơm, quét tịnh thất, tôn kính bậc trưởng thượng, giác tỉnh, nhu thuận, lặng lẽ, ôn hòa, thuần tịnh , nội tâm trong sạch không có cáu bợn phiền não...! Cả ại Giảng ường mênh mông như vừa được tắm mát bởi thời Pháp của Tôn giả. Chư Thiên ngự đầy đặc cả không gian rải hoa ca ngợi. Tôn giả bước xuống Pháp tòa, quỳ ôm đôi chân của ức Thế Tôn rồi cất lên tiếng lời uy dũng của Sư Vương - Kính lạy Bậc Thiên Nhân Sư! Hãy cho đệ tử lễ bái đôi chân này! Cũng chính nhờ lễ bái đôi chân này mà đệ tử được hoàn toàn giác ngộ, hoàn toàn giải thoát. Chính nhờ lễ bái đôi chân này mà đệ tử được sống giữa thời gian vô cùng và không gian vô tận, được sống vĩnh cửu trong mỗi chớp mắt thoáng trôi. Tất cả mọi nguyện vọng, hy cầu của đệ tử giờ đây đã được cụ túc, viên dung, trọn vẹn. Từ đây, đệ tử sẽ không còn được gặp ức Thế Tôn để đảnh lễ đôi chân này nữa. ây là giờ phút nghiêm trọng, thiêng liêng mà đệ tử có thể sờ được đôi chân của ấng Toàn Giác, đồng thời thấy rõ được cảnh giới Niết Bàn, không chết, không sinh, an nhiên, tự tại, tịnh mặc. ệ tử đảnh lễ đôi chân này vì đôi chân này cũng chính là đôi chân của vô lượng vị Phật quá khứ đã bước vào cảnh giới ấy và hiện giờ đây, đệ tử cũng đang lần bước theo. ảnh lễ đôi chân một ngàn căm bánh xe của ức Phật xong, Tôn giả đứng lên rồi quỳ xuống lại. - Bạch ức Thế Tôn! Từ trước đến nay, suốt bốn mươi bốn năm sống trong Giáo Pháp, nếu đệ tử có hành vi hay lời nói nào phật ý ức Thế Tôn, không được vừa lòng ức Thế Tôn vì trí tuệ non kém của đệ tử, ngưỡng mong ức Thế Tôn hỷ xả, tha thứ lỗi lầm ấy cho đệ tử. ức Phật cất giọng chậm rãi, từ hòa - Này Xá-Lợi-Phất! Ông là một tỳ-khưu uyên bác, thông minh, có đạo hạnh cao cả, khiêm nhu, một Trí Tuệ vượt bậc, sắc bén và sáng sủa, lẽ nào ông có thể có hành vi hay cử chỉ tạo ra lỗi lầm với Như Lai? Ông đúng là một Sa môn ưu tú, mẫu mực, giềng mối cho Giáo Hội; gia dĩ có sự quở trách nào đó cũng chỉ vì muốn viên toàn bổn phận cho ông, hoặc ông sẽ tăng trưởng phương tiện thiện xảo để dẫn dắt Chư Tăng thay mặt Như Lai mà thôi. Rồi ức Thế Tôn lại nói tiếp - Dầu ông có lỗi lầm hay không lỗi lầm Như Lai cũng đã tha thứ cho ông rồi. Mà thật ra, ông có lỗi lầm gì đâu, trọn cả cuộc đời, dầu là một hạt bụi nhỏ, ông cũng không để dính trên sợi lông chân của mình! Thôi, thì giờ cũng đã phải lẽ, ông hãy làm những gì mà ông nghĩ là đúng thời! ức Phật đứng dậy. Tôn giả Xá-Lợi-Phất rời khỏi bàn chân của ức Thế Tôn. Ngay lúc ấy, đại địa cầu rung chuyển, nước trong bốn đại dương dâng cao. Cả tầng mây, cả hư không dường như cũng dao động không ngớt! nếu đại địa cầu biết nói thì nó sẽ khởi lên tiếng nói như sau "- Ôi! Hỡi những hiện thân vĩ đại và siêu việt! Mặc dầu thân thể tôi đây có thể chịu đựng được những vết chém ngang dọc của những con sông to, sông nhỏ, mặc dầu thân thể tôi đây có thể chở mang, gánh nặng những ngọn Meru hùng vĩ, những thần sơn Cakkavàla cao ngất và đỉnh Himavantu - vua của loài núi, ngút mây! Thế nhưng, tôi đã không chịu đựng nỗi ngày hôm nay, một ngày mà Giới đức, ịnh đức, Tuệ đức cùng vô lượng phẩm chất cao đẹp khác của con người đồng quy tụ ở ại Giảng ường Kỳ Viên tịnh xá này!" Chợt một tiếng sấm đầy uy vũ vang tận các tầng trời và không biết từ đâu, một đám mây khổng lồ che kín cả không gian, tối đen, và một trận mưa kinh hoàng, xối xả tuôn xuống mặt đất như thác đổ. ức Thế Tôn nhìn trời, tự nghĩ "- Giờ đây, một vị Chưởng Pháp vô song sắp đi vào Tịch Diệt, trời đất đã khởi lên những hiện tượng của trăm ngàn đại kiếp mới có một lần. Thôi, như vậy là vừa đủ để còn nhiều người đưa tiễn con trai của ưu tú Như Lai!" Trời lại quang, mây lại lặng. ức Thế Tôn rời ại Giảng ườøng bước về hương phòng, Ngài đứng trên tấm thảm ngọc nhìn ra. Tôn giả Xá-Lợi-Phất đi theo, chấp tay rồi đi quanh hương phòng ba vòng về bên mặt, bốn góc, đảnh lễ bốn phương; đến chính điện, chấp hai tay lên quá đầu, đảnh lễ ức Thế Tôn một lần nữa. Với tư thế lặng lẽ như vậy, Tôn giả nói ở trong tâm "- Giờ phút này, giữa không-thời-gian vĩnh cữu, bất diệt, không biết đã trải qua bao trăm ngàn đại kiếp, khi ta quỳ mọp dưới chân ức Phật Anomadassi và phát nguyện được gặp ấng Như Lai này? Nguyện vọng ấy giờ đã hoàn toàn viên mãn. Lần gặp gỡ đầu tiên với Ngài là sự kiện lớn nhất đối với ta. Còn đây là lần gặp gỡ sau chót, ta chiêm ngưỡng Ngài, để sau này chẳng còn cơ hội nào nữa cả." Thế rồi, Tôn giả đứng dậy, vẫn giữ nguyên tư thế hai tay trên đỉnh đ?u, Ngài thụt lùi từng bước một chậm rãi, thụt lùi cho đến lúc không còn thấy ức Thế Tôn nữa. ại địa cầu một lần nữa lại rung chuyển dữ dội, sóng nước từ bốn đại dương dâng cao, ì ầm, va đập giữa hư không! ức Phật nói với Chư Tăng - lúc ấy họ đứng yên lặng đầy đặc cả Kỳ Viên tịnh xá - Các thầy hãy đi đi! Hãy đi tiễn ông anh cả của các thầy đi! Nói xong, ức Thế Tôn quay lưng, khép cửa hương phòng lại. Chư Tăng cả hàng ngàn vị, hàng chục ại Trưởng lão đồng theo chân đưa tiễn Bậc Tướng Quân Chánh Pháp v? nơi an nghĩ cuối cùng. Dân chúng thành Xá-Vệ hay tin, họ khóc lóc kéo nhau thành từng đoàn, lũ lượt như từng dòng suối chảy cuồn cuộn, đổ ra từ các hang cùng ngõ hẻm. Chợ không đông, nhà nhà đóng cửa lại. Họ tỏ dấu chịu tang bằng cách tẩm ướt nước lên tóc, tay cầm tràng hoa, vật thơm đặt lên tất cả các lối đi. Tôn giả Xá-Lợi-Phất và Chư Tăng bị bít kín giữa rừng người, giữa rừng tiếng khóc và biển nước mắt. Ngài phải đứng lên cao, nói lời an ủi, phủ dụ - Hỡi các hàng cận sự nam nữ và muôn dân thành Xá-Vệ yêu mến! Các người đã có lòng thương xót đến ta, kính mến ta thì hãy trở về. ưa tiễn ta như vậy là vừa đủ. Ai rồi cũng phải một lần vĩnh biệt. Nhưng ta ra đi không phải là về nơi đau khổ, ta đi về chốn giải thoát và tịnh lặng. Ta ghi nhận tấm lòng tri ân của các người, rồi phước báu sẽ hộ trì cho các người được hạnh phúc và an ổn! Tôn giả lại nói với Chư Tăng cùng chư vị Trưởng lão - Tôi cũng rất biết ơn Chư Tăng cùng các vị Trưởng lão đã tận tình tiễn đưa. Trong bao năm chung sống trong Giáo Pháp thiêng liêng, cao cả - chư Tôn giả đã giúp đỡ tôi hết lòng, nhờ vậy Giáo Hội mới có được ngày hôm nay. Giờ phút cuối cùng này, và không bao giờ còn sự gặp gỡ nào khác, xin Chư Tăng và chư vị Trưởng lão xá tội cho tôi nếu tôi đã có gì lầm lỡ. Mong chư Tôn giả thay mặt tôi mà chăm sóc, hầu hạ sức khỏe cho ức Bổn Sư. Tôi xin thành kính đa tạ. Chư Tăng lặng lẽ hơn nhưng không tránh khỏi còn nhiều tiếng khóc. Họ cũng không nói gì, đưa đôi mắt nhìn Tôn giả thật lâu, kính cẩn đảnh lễ, chào rồi từ từ quay gót. Tuy thế còn rất đông vị bịn rịn không chịu đi, Tôn giả ân cần nói mãi, họ vẫn khóc lóc, kể lễ - Này các thầy! Hãy đứng lại một lát đã. Trước đây người anh cả của chúng ta đi bao nhiêu lần cũng trở về, còn đây là chuyến đi không có ngày trở lại! - Chúng ta sẽ không bao giờ được nghe những lời Pháp êm ái, ngọt ngào được tuôn chảy ra từ tấm lòng từ ái bao la của người Mẹ hiền nữa. - Chúng ta sẽ không còn được nhìn ngắm khuôn mặt tuấn tú, đoan nghiêm; tác phong ôn nhu, khiêm tốn; nụ cười rực sáng hồn hậu của vị đại huynh trưởng kia nữa! Tôn giả lại phải khuyên nhủ - Này các thầy! Ly hợp là thường tình, luyến thương là phiền não. Tất cả mọi cái được cấu tạo, do nhân duyên, do điều kiện đều bị chi phối bởi định luật tất yếu của sanh diệt, vô thường. Các thầy biết rõ điều ấy rồi thì đừng nên chuốc lấy đau khổ cho mình mới phải! - Thưa vâng, bạch Tôn giả! Chúng tôi sẽ khắc cốt, ghi tâm những lời vàng ngọc ấy. Lúc đó họ mới chịu bước đi. Trong giờ phút tiễn đưa này, Tôn giả Xá-Lợi-Phất được gặp hầu hết các vị Trưởng lão. Chỉ có một số Tôn giả tránh gặp mặt, rút vào rừng sâu. Tôn giả Mục-Kiền-Liên viện cớ đi xa. Tôn giả Ànanda được ức Phật sai đi công việc ở nơi khác. Tôn giả Li-Bà-a và A-Nậu-à-La xin được đưa tiễn đến nơi đến chốn. Ngài Xá-Lợi-Phất đồng ý. Thế rồi, Ngài cùng với hai Tôn giả Thánh Tăng, Trưởng lão A-La-Hán Cunda và với năm trăm vị tỳ-khưu môn đệ nhắm hướng Nàlakà cất bước. Ôi! Thật là một cuộc từ giã vĩ đại mà trong Giáo Pháp của ức Tôn Sư chỉ xảy ra một lần! Quả địa cầu đã không chịu đựng nổi. -ooOoo- ầu trang 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 Mục lục

mot ngoi sao bang vua roi qua day